Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại sao đổi từ Ấn Độ Giáo sang Phật Giáo lại là chuyện trọng đại.

16/04/201606:03(Xem: 8137)
Tại sao đổi từ Ấn Độ Giáo sang Phật Giáo lại là chuyện trọng đại.
Ambedkar

 

 

Tại sao gia đình này đổi từ Ấn Độ Giáo sang Phật Giáo lại là chuyện trọng đại.

 

 

Kể từ khi anh được phát hiện treo cổ trong ký túc xá vào tháng Giêng này, câu chuyện về cuộc đời của Rohith Vemula đã được khơi lại thành đề tài nói chuyện về hệ thống đẳng cấp và sự kỳ thị đặt căn bản trên đẳng cấp tại Ấn Độ, đặc biệt hơn là trong các trường đại học. Trước khi Vemula tự tử ở tuổi 26 vào ngày 17 tháng 1, câu chuyện đó thông thường có vẻ đã yên ngủ trong hệ thống truyền thông vốn có nhiều náo loạn của Ấn Độ, bất kể sự tràn lan của những chuyện giết người, chối bỏ cung cấp dịch vụ và việc làm, bảo kê lao động tương ứng, và ngay cả việc tiếp nối tập tục “nhặt rác bằng tay” mà những người thuộc các tầng lớp thấp nhất của cái thang đẳng cấp bị bắt buộc phải đi thu dọn chất phế thải từ cơ thể của mọi người khác và mang đi đổ bỏ bằng tay. Chế độ phân chia đẳng cấp đang phai nhạt dần, nhưng những dấu vết của nó còn nhuốm đậm trong xã hội Ấn Độ, kể cả trong các tín ngưỡng.

 

Những hình thức kỳ thị đó đã bị xem là phạm luật trong hiến pháp của Ấn Độ, do nhà lãnh đạo tiên phong của giới "hư hõng, vứt đi" Dalit, người “cha đẻ” Bhimrao Ambedkar, mà ngày Thứ Năm, Tháng tư 14 là ngày sinh nhật thứ 125 của ông, soạn thảo ra đầu tiên. Ông Ambedkar không những đã gay gắt chỉ trích và chối bỏ hệ thống đẳng cấp, mà còn nới rộng thêm ra đến nhiều văn bản nền tảng căn bản của Ấn Độ giáo nữa. Sau khi cân nhắc trong nhiều thập kỷ về vấn đề rời bỏ, thoát ra khỏi hệ thống đẳng cấp như thế nào cho đúng, sau cùng ông quyết định hoán chuyển sang Phật giáo. Ông đã làm như vậy với hơn nửa triệu người tin tưởng đi theo ông vào ngày 14 Tháng 10 năm 1956.

 

Và vào ngày thứ Năm, mẹ và anh trai của Vemula đã chọn làm giống y như vậy, trước sự chứng kiến của Prakash, người cháu nội của ông Ambedkar,. Người chị lớn của Rohith, đã kết hôn với một người đàn ông thuộc đẳng cấp cao hơn, không chuyển giáo.

"Kể từ hôm nay, mẹ tôi và tôi sẽ thật sự được tự do," Raja Vemula, anh của Rohith phát biểu trong buổi lễ. "Thoát khỏi sự xấu hổ. Thoát khỏi sự sỉ nhục hàng ngày. Thoát khỏi tội lỗi từ việc cầu nguyện cùng một Thượng Đế mà dưới cái tên đó dân chúng chúng tôi đã bị hành hạ qua bao nhiêu thế kỷ." 

 

Rohith đã ngưỡng mộ Ambedkar, anh cũng ngưỡng mộ cả Đức Phật, nhưng anh không bao giờ chuyển giáo. Trong thư tuyệt mạng, anh mô tả mình như là một người đàn ông bị lung lạc nhiều từ các lập luận có tính cách khoa học và còn bị dằn vặt do việc xã hội bất lực không thể nhìn thấy anh như là một người có "khối óc" qua cái lăng kính đẳng cấp của anh. Anh đã viết: "Giá trị của một người đàn ông đã bị giảm thiểu theo cái bản chất tức thời và trong cái giới hạn gần nhất của người đó. Sự ra đời của tôi chính là cái tai nạn giết chết tôi."

 

Trong những bài xã luận đã được đăng tải trong khoảng năm 1930, Ambedkar đã ví đẳng cấp như một cái tháp cao nhiều tầng không có cầu thang lên xuống và cũng không có lối đi ra, trong đó người ta phải chết tại chính tầng lầu mà họ đã được sinh ra.  

 

Trong bài diễn văn vào năm 1935, ông giải thích sự việc chối bỏ Ấn Độ giáo của ông như sau.

 

"Vì chúng ta có cái bất hạnh được tự gọi mình là tín đồ Ấn Độ giáo, nên chúng ta đã bị đối xử như vậy," ông nói. "Nếu chúng ta là thành viên của một tín ngưỡng nào khác họ hẳn không đối sử với chúng ta như thế.  Hãy chọn bất cứ một tôn giáo nào mang đến cho bạn sự bình đẳng về thân phận và về cách đối xử. Chúng ta sẽ sửa chữa sai lầm của chúng ta ngay từ lúc này. Tôi có cái bất hạnh của việc sinh ra với cái vết đốm của một người Hạ tiện. Tuy nhiên, đó không phải là lỗi của tôi, nhưng tôi sẽ không chết là một tín đồ Ấn Độ giáo, bởi vì điều này nằm trong quyền lực của tôi ".

 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kim Morris 

4/15/2016







Why this family’s conversion from Hinduism to Buddhism matters

By Max Bearak April 14  


Ambedkar

An Indian woman watches exhibits on the life of Bhimrao Ambedkar, whose portrait is seen in the background on the right, next to the Buddha's, as people visit a memorial dedicated to him on his birth anniversary, in Mumbai, India, on Thursday, April 14. Ambedkar, born an untouchable, or Dalit, became a prominent Indian freedom fighter, and was the chief architect of the Indian Constitution, which outlawed discrimination based on caste. (AP Photo/Rajanish Kakade )

 
Rohith Vemula was never able to escape the trappings of his "low birth." He was a "Dalit" -- a term that roughly translates to "broken" -- a grouping of lower castes once referred to as "untouchables." Entries in his diary and interviews with his friends revealed a story filled with the hardships of growing up poor, and interactions with a society that, to him, seemed to be against his progress as a student. The final straw came when his hard-won scholarship at Hyderabad Central University was revoked after another group of students, mostly upper caste, reported him for engaging in "anti-national" activities -- in this case, protesting the execution of an accused terrorist he believed was falsely convicted.
Since he was found hanging in his dormitory this January, the story of Rohith Vemula's life has reinvigorated a conversation around the caste system and caste-based discrimination in India, particularly on university campuses. Before Jan. 17, when Vemula committed suicide at age 26, that conversation could often seem dormant in India's multitudinous media, despite widespread instances of killings, denial of services and jobsbonded labor, and the continuation of practices such as "manual scavenging," in which those belonging to the lowest rungs of the caste ladder must collect and dispose of everyone else's bodily waste. Casteism is on the wane, but its imprints pervade much of Indian society, across religions.
Those forms of discrimination were outlawed in India's constitution, which was crafted primarily by the country's foremost Dalit leader, Bhimrao Ambedkar, a "founding father" whose 125th birth anniversary is Thursday, April 14. Ambedkar was scathing in his criticism and rejection of the caste system and, by extension, many of Hinduism's foundational texts. After deliberating for decades on how he might leave the caste system, he decided to convert to Buddhism. He did so with more than half a million followers on Oct. 14, 1956.
And on Thursday, Vemula's mother and brother chose to do the same, in thepresence of Ambedkar's grandson, Prakash. Rohith's elder sister, who is married to a man from a higher caste, did not convert.
"From today, my mother and I will be truly free," said Raja Vemula, Rohith's brother, at the conversion ceremony. "Free from shame. Free from daily humiliation. Free from the guilt of praying to the same God in whose name our people have been tortured for centuries."
Rohith admired Ambedkar, as well as the Buddha, but he never converted. In a suicide note, he portrayed himself as a man swayed mostly by scientific arguments and tormented by society's inability to see him as "a mind" rather than through the lens of his caste.
"The value of a man was reduced to his immediate identity and nearest possibility," he wrote. "My birth is my fatal accident."
In editorials published in the 1930s, Ambedkar wrote of caste as a multistoried tower with no staircase and no exits, in which people had to die on the story on which they were born. In a 1935 speech, he explained his rejection of Hinduism.
"Because we have the misfortune of calling ourselves Hindus, we are treated thus," he said. "If we were members of another faith none would treat us so. Choose any religion which gives you equality of status and treatment. We shall repair our mistake now. I had the misfortune of being born with the stigma of an Untouchable. However, it is not my fault; but I will not die a Hindu, for this is in my power."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4716)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5020)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4512)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3746)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7555)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4745)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6176)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5322)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12153)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5352)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]