Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

04/04/201621:38(Xem: 8273)
Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm

Đức Phật Dạy Cầu Nguyện Cho Thân Trung Ấm
anh nsgn

Nguyên Giác

Mở bất kỳ Kinh Nhật Tụng nào trong các chùa Bắc Tông, chúng ta đều thấy có các nghi thức cầu an, cầu siêu. Nhiều người nghĩ rằng các pháp đều có nhân quả, phải tự mình mình tu, chớ nên cầu xin bất kỳ ai, vì có ai cho phước mình đâu. Về lý luận, nói như thế có phần tích cực là khuyến tu, nhưng Kinh Phật sơ thời cũng vẫn có các lời dạy cầu an, cầu siêu – tuy là nhiều dị biệt với thời chúng ta.

Lời dạy cầu an trong Kinh Tạng Pali có rất nhiều. Nổi bật nhất là trường hợp ngài Angulimala, khi ngài chú nguyện để cứu một thai phụ gặp sản nạn, và rồi mẹ tròn con vuông.

Lời dạy cầu siêu rất hiếm gặp, cực kỳ khó gặp. Khó gặp tới nỗi hầu hết quý thầy Nam Tông không tin rằng có một thân trung ấm nào, vì khi Đức Phật dạy về ba cõi (tam giới) không thấy nơi nào phù hợp cho thân này, nếu gọi là “thân” trung ấm, và do vậy nhiều thầy tin rằng tái sanh là tức khắc, y hệt lửa từ ngọn đuốc này chuyền sang ngọn đuốc kia.

Sự thực, Đức Phật dạy có thân trung ấm, nhưng Ngài không gọi là “thân.” Và sự thực, Đức Phật có dạy cách cầu nguyện cho thân trung ấm. Để hiểu đơn giản, thân trung ấm được định nghĩa là khi sự sống lìa thân này và chưa thọ thân sau.

Trong bài viết “Kinh Đắc Quả Khi Từ Trần Và Kinh Tái Sinh Như Lửa Theo Gió” (1), chúng ta đã trả lời hai câu hỏi: Đức Phật có dạy về thân trung ấm không, và thân này nuôi dưỡng bằng nhiên liệu gì?

Lời đáp là: Đức Phật dạy có thân trung ấm, nhiên liệu nuôi thân này là tham ái.

Bài viết hôm nay sẽ tìm cách trà lời các câu hỏi: Đức Phật có dạy cầu nguyện cho thân trung ấm không, và cầu nguyện thế nào?

**

Chỗ này nên cẩn trọng: Đức Phật dạy giáo pháp vô ngã, do vậy không nên hiểu rằng có một “cái tôi” nào đi từ kiếp trước sang kiếp sau.

Trong Bắc Tông, chữ “thân trung ấm” là gọi cho dễ hiểu, nhưng thường khi gọi là thần thức, nghiệp thức, giác linh, hương linh… Tất cả các cách gọi đó đều chỉ về một phương diện của thân trung ấm.

Thường nhất, Đức Phật gọi các chúng sinh khi lìa thân này và chưa thọ sanh ở thân sau là “thức” (consciousness) –môi trường tái sanh gọi là“nghiệp”(kamma)…

Kinh MN 38 - Mahatanhasankhaya Sutta viết: “Kamma is the field, consciousness the seed, and craving the moisture…” (Nghiệp là cánh đồng, thức là hạt giống, và tham ái là nước tưới…).

Có lẽ, cũng là tùy cơ, nói từng phương diện. Lời dạy của Đức Phật thâm sâu, và thường khi ban pháp là gắn liền với trình độ tu chứng của từng vị tỳ kheo nghe pháp.Sở học của người viết bất toàn, nên nơi đây chỉ có thể đưa ra các lời giải đoán, chủ yếu dựa vào kinh.

Giải thích thế nào về thức này? Hẳn nhiên không phải là một “cái tôi” vì thức phải biến chuyển theo luật vô thường và cũng biến chuyển theo nhiên liệu nuôi thân trung ấm là tham ái.

Trong Kinh Mahanidana Sutta, bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi, nơi đoạn 21,  Đức Phật có đoạn vấn đáp với Ngài Anan về thức thọ sanh này – tuy không nói là giữa hai thân, nhưng nói rõ là có thức đang  tìm nơi thọ sanh, có thể bị gián đoạn và phải tìm nơi thọ sanh khác (nghĩa là hành trình sẽ cực kỳ gian nan, nếu chúng ta không lo tu học):

“If consciousness were not to descend into the mother’s womb, would mentality-materiality take shape in the womb?”

“Certainly not, venerable sir.”

“If, after descending into the womb, consciousness were to depart, would mentality-materiality be generated into this present state of being?”

“Certainly not, venerable sir.”

DỊCH:

“Nếu thức không vào bụng mẹ, danh-sắc có hình thành trong bụng mẹ không?”

“Bạch Thế Tôn, chắc chắn là không.”

“Nếu, sau khi vào bụng mẹ, thức phải ra đi, danh-sắc có sẽ trở thành như chúng sinh hiện nay không?”

“Bạch Thế Tôn, chắc chắn không.”

Tương tự bản Anh dịch của Bhikkhu Bodhi là bản của Thanissaro Bhikkhu. Links cả hai bản ở ghi chú (2).

**

Tới đây, chúng ta có thể hỏi, rằng thức tìm nơi thọ sanh có khác gì với các khái niệm về thức như chúng ta thường đọc?

Hình như không khác nhiều, nếu chúng ta tránh sử dụng chữ “thân” khi gọi về lực sống này.

Bời vì trong Kinh DN 28, Ngài Sariputta gọi đó là “the unbroken stream of human consciousness as established both in this world and in the next…” (dòng tương tục ý thức không gián đoạn của con người khi được thiết lập trong kiếp này và kiếp sau).

Dĩ nhiên, ngay cả khi gọi là ý thức, chúng ta trong 24 giờ/ngày vẫn có thể mê muội tới 23 giờ (thậm chí, mê cả 24 giờ). Ngay cả khi Đức Phật đã dạy trong Kinh SN 35.23 và Kinh SN 35.82 – xem bản dịch 2 kinh này ở ghi chú(3)-- rằng toàn bộ thế giới chỉ là tâm-cảnh bất nhị (cũng hiểu là thức, khi nói về dụng), nghĩa của thức này hẳn là khác với “thức đang tìm nơi thọ sanh” – tức là khác với “thức giữa đời này và đời sau”? Trùng trùng nghi vấn vậy.

Trong tác phẩm biên khảo “Giới Thiệu Đại Cương Về Duy Thức Học” của Ni sư Tuệ Hạnh, có đoạn viết:

“…Vasubandhu viết Nhị thập tụng và tự viết thêm phần chú giải, trong khi Tam thập tụng thì có phần chú giải của Sthiramati (An Huệ). Theo hai bản luận căn bản của Duy thức tông này, thì tất cả mọi hiện tượng đều là sự biến hiện của thức trong hành vi và hoạt động nội tại của chúng; những nhận thức của chúng ta không phải là do từ đối tượng ngoại tại tạo thành, những đối tượng mà ta tưởng là hiện hữu bên ngoài và tạo thành ý nghĩ của chúng ta. Cũng giống như trong giấc mộng, chúng ta có những kinh nghiệm về thiên hình vạn trạng, người ta, cảnh vật, thời điểm, cảm giác, v.v..., tất cả đều y như thật trong giấc mộng đó. Đến khi tỉnh giấc, ta còn vẫn còn có những cảm giác như thật khi tiếp xúc và phản ứng với những gì trong mộng. Ấy thế mà khi tỉnh giấc, thì chẳng có gì. Cũng vậy, tất cả các đối tượng ngoại tại chẳng qua chỉ là do thức hiện khởi mà thôi…” (4)

Kể như Duy Thức nhiều phần tương tự với Kinh SN 35.23 và Kinh SN 35.82. Trong khi đó Bát Nhã Tâm Kinh, tức bản kinh cô đọng của Trung Luận, so sánh hình ảnh thực tướng như giấc mộng qua câu “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”

Đức Phật cũng so sánh các pháp hữu vi với giấc mộng, như trong Kinh Pháp Cú Kệ 170, nói rằng các pháp như bọt nước, như cảnh huyễn, “Như mộng, huyễn, bọt, bóng,Như sương cũng như điện…”

Tuy các pháp là mộng như thế, yêu cầu giải thoát vẫn luôn luôn là khẩn thiết.

**

Nơi đây, xin kể hai kỷ niệm. Bản thân người viết không hiểu mọi chuyện, nghe sao, thấy sao kể vậy thôi.

Nhiều thập niên trước, một lần bổn sư Thích Tịch Chiếu kể với người viết rằng, dân chúng quanh Chùa Tây Tạng Bình Dương nghèo, lúc đó cũng là mới vài năm sau 1975, nên khi dân chúng thỉnh sư tới làm tang lễ, lo sợ là nếu nhiều thầy tới, e tang gia không có đủ lễ  cúng dường. Thầy biết thế, nhưng giải thích với người viết là có khi phải cử nhiều vị tăng có nhiều oai đức đi, không phải chuyện gì khác hết, nhưng chỉ vì muốn dùng oai đức đó để giúp hương linh siêu thăng.

Thực sự, người viết không hiểu, không được giải thích thêm, và cũng không biết gì về nghi thức tang lễ, vì bản thân chỉ được Thầy dạy về pháp “Không có gì để tu hết” của Thiền Tông. (5)

Kỷ niệm thứ nhì là khi ngài Geshe Tsultim Gyeltsen trước khi viên tịch, dặn đồ chúng trong Chùa Thubten Dhargye Ling, ở Long Beach, California,hãy chờ vài ngày, sẽ có hiện tượng lạ rồi mới làm tang lễ. Nghĩa là, tuy đã chết nhưng vẫn còn trong thiền định nhiều ngày, còn hơi ấm. Bản thân người viết lúc đó là phóng viên, có tình thân với nhiều vị trong ngôi Chùa Tây Tạng này, đã quan sát tận tường nhiều ngày, cho tới khi có hiện tượng cầu vồng xuất hiện quanh chùa này, và bao phủ một vùng xa lộ I-405, cầu vồng sáng khoảng nửa giờ hay một tiếng, thân của ngài mới bắt đầu cứng lại, nghĩa là (được giải thích) là ngài kết thúc thiền định. Lúc đó, nhục thân ngài được đóng quan tài kẽm để chở phi cơ sang Bắc Ấn Độ để làm nghi thức hỏa thiêu, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thực hiện vì nhiều năm trước đó, ngài từng giữ chức tương đương với Bộ Trưởng Ngoại Giao cho Đức Đạt Lai Lạt Ma (so sánh kiểu chức vụ thế gian). Vài năm sau, Đức Đạt Lai Lạt Ma công nhận một cậu bé sinh ở hải ngoại (ngoài Hoa Lục) là thân sau của ngài, và đã đón cậu bé này về Dharamsala để cho học đạo. Có nghĩa là, vị cao tăng Geshe Tsultim Gyeltsen đã có nhiều ngày trong thân trung ấm?

Chỉ xin kể vậy thôi. Bản thân người viết không giải thích gì được.

**

Tới đây, chúng ta nói về Kinh Karaniya Metta Sutta (Sn 1.8 PTS: Sn 143-152). Trong kinh này, Đức Phật có dạy là hãy cầu nguyện cho thân trung ấm. Nơi đây, chúng ta sẽ trích nhiều bản Anh dịch để đối chiếu.

Duyên khởi của Kinh này được kể là, trong khi Đức Phật cư trú ở thành Xá Vệ, một nhóm các tỳ kheo trước đó đã nhận được nhiều đề tài thiền định từ ngài, tới một cánh rừng để nhập hạ. Các vị thần cây cư trú trong rừng này lo ngại khi thấy chư tăng tới, vì chư thần phải từ trên cây xuống và ở trên mặt đất. Dù vậy, chư thần hy vọng chư tăng sẽ ra đi sớm, nhưng khi biết chư tăng sẽ ở tới ba tháng, nên mới quấy nhiễu chư tăng bằng nhiều cách suốt cả đêm, nhằm làm quý thầy phải bỏ đi.

Thấy hoàn cảnh bất khả như thế, quý thầy tới gặp Đức Phật, trình bày về khó khăn như thế. Đức Phật mới dạy Kinh Từ Bi (Metta Sutta), và khuyên chư tăng hãy về lại cánh rừng cũ với kinh này sẽ bảo vệ.

Chư tăng trở lại cánh rừng, thực tập lời Đức Phật dạy, rải tâm từ chói sáng. Chư thần cảm phục vì sức mạnh tâm từ, mới để quý thầy bình an tu học. Kinh này chia làm hai phần. Phần đầu nói về yêu cầu tu tập về giới và định, phần thứ nhì nói về pháp Tâm Từ. Kinh này là vừa cầu an, vừa cầu siêu.

Sau đây là toàn văn bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita; trong khi bản Việt dịch tham khảo nhiều bản Anh dịch khác:

.

Who seeks to promote his welfare,

Having glimpsed the state of perfect peace,

Should be able, honest and upright,

Gentle in speech, meek and not proud.

Những người muốn tự lợi mình

đã từng nhìn thấy lóe lên cõi tịch lặng

hãy có năng lực, lương thiện và cương trực

lời nói dịu dàng, khiêm tốn và không ngã mạn.

.

Contented, he ought to be easy to support,

Not over-busy, and simple in living.

Tranquil his senses, let him be prudent,

And not brazen, nor fawning on families.

Hài lòng, vị này không có gì cần nhiều

không quá bận rộn, và sống đơn giản.

giữ các căn tịch lặng, vị này khéo léo

biết hổ thẹn, không bận tâm chuyện có nhiều Phật tử ủng hộ

 

Also, he must refrain from any action

That gives the wise reason to reprove him.

(Then let him cultivate the thought:)

May all be well and secure,

May all beings be happy!

Thêm nữa, vị này phải tránh bất kỳ hành vi nào

khiến các bậc trí giả phải khiển trách

(Rồi, vị này hãy giữ các niệm sau đây:)

Nguyện cho tất cả đều được an lành,

Nguyện cho tất cả chúng sinh hạnh phúc!

.

Whatever living creatures there be,

Without exception, weak or strong,

Long, huge or middle-sized,

Or short, minute or bulky,

Bất cứ chúng sinh nào hiện hữu

không loại trừ, yếu hay mạnh,

dài, khổng lồ hay cỡ trung,

hay ngắn, nhỏ hay kềnh càng,

.

Whether visible or invisible,

And those living far or near,

The born and those seeking birth,

May all beings be happy!

Cho dù hữu hình hay vô hình,

và cả những chúng sinh sống xa hay gần,

đã sinh ra và cả những [trung ấm] đang tìm nơi thọ sanh,

Nguyện tất cả các chúng sinh đều hạnh phúc!

.

Let none deceive or decry

His fellow anywhere;

Let none wish others harm

In resentment or in hate.

Nguyện cho không ai lừa gạt ai,

không ai nguyền rủa ai ở bất cứ nơi nào;

Nguyện không ai ước điều nguy hại cho ai

dù trong cay đắng hay trong căm ghét.

.

Just as with her own life

A mother shields from hurt

Her own son, her only child,

Let all-embracing thoughts

For all beings be yours.

Cũng như với chính sinh mạng của mình

bà mẹ ngăn che tổn thương cho

chính con trai của bà, đứa con duy nhất của bà,

Hãy khởi tâm từ vô lượng này

tới tất cả chúng sinh [như mẹ lo cho con].

 

Cultivate an all-embracing mind of love

For all throughout the universe,

In all its height, depth and breadth —

Love that is untroubled

And beyond hatred or enmity.

Hãy tu dưỡng tâm yêu thương vô lượng này

đối với tất cả chúng sinh khắp vũ trụ các cõi

trên cao, dưới thấp và chặng giữa --

Hướng tâm từ này cho tất cả đều an lành

Và vượt qua mọi thù nghịch, giận dữ.

As you stand, walk, sit or lie,

So long as you are awake,

Pursue this awareness with your might:

It is deemed the Divine State here.

Khi đứng, đi, ngồi hay nằm

hễ bất cứ khi nào tỉnh thức

hãy ra sức gìn giữ tâm từ này

vì là nơi của Đời sống Cao quý nơi đây.

 

Holding no more to wrong beliefs,

With virtue and vision of the ultimate,

And having overcome all sensual desire,

Never in a womb is one born again.

Không rơi vào tà kiến

với giới hạnh và cái nhìn trí huệ tận cùng

vượt qua mọi tham dục

sẽ không bao giờ thọ sanh nữa. (Hết bản Việt dịch)

**

Ghi nhận, tất cả các bản dịch đều có câu nguyện hạnh phúc cho “những vị đang tìm nơi thọ sanh” như nhau.

Bản Anh dịch của Acharya Buddharakkhita ghi trên nói về thân trung ấm là:

The born and those seeking birth,

May all beings be happy!

(Những vị đã sinh ra và những vị đang tìm nơi thọ sanh

Xin nguyện cho tất cả chúng sinh đều hạnh phúc!

.

Bản của Ñanamoli Thera là:

Existing or yet seeking to exist.

May creatures all be of a blissful heart.

.

Bản của Piyadassi Thera:

those who are born as well as those yet to

be born — may all beings have happy minds.

.

Bản của The Amaravati Sangha:

Those born and to-be-born —

May all beings be at ease!

.

Bản của Thanissaro Bhikkhu:

born & seeking birth:

May all beings be happy at heart.

.

Bản của Anandajoti:

those who are born, and those who still seek birth

—may all beings in their hearts be happy!”

 

Links của các bản này ở ghi chú (6).

Như thế, Đức Phật có dạy cầu nguyện cho những hương linh đang tìm nơi thọ sanh, nói theo ngữ cảnh quen thuộc của chúng ta, là cầu siêu cho thân trung ấm.

.

GHI CHÚ:

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a24987/kinh-dac-qua-khi-tu-tran-va-kinh-tai-sinh-nhu-lua-theo-gio

(2) Bản của Bhikkhu Bodhi: http://www.bps.lk/olib/mi/mi018-p.html

Bản của Thanissaro Bhikkhu: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/dn/dn.15.0.than.html

(3) Xem: http://thuvienhoasen.org/a24741/duc-phat-day-phap-thay-tanh

(4) Xem: http://thuvienhoasen.org/a7211/dai-cuong-ve-duy-thuc-hoc

(5)Thiền Sư Nhẫn Tế 80 Năm Kỷ Niệm Tây Du Phật Quốc, trang 91-93:http://thuvienhoasen.org/images/file/MTemVP6V0ggQAPE8/80-nam-tay-du-ky-phat-quoc.pdf

(6)Bản của Acharya Buddharakkhita:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.budd.html

Bản của Ñanamoli Thera:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.nymo.html

Bản của Piyadassi Thera:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.piya.html

Bản của The Amaravati Sangha:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.amar.html

Bản của Thanissaro Bhikkhu:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.1.08.than.html

Bản của Anandajoti:

https://suttacentral.net/en/kp9

 

.

.

.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/06/2020(Xem: 6239)
Dharamshala, ngày 9/6/2020: Ngài Khensur Geshe Tashi Tesering, một vị tăng sĩ Phật giáo Tây Tạng nổi tiếng cư trú tại Queensland, Australia, cựu trụ trì Tu viện Gyudmey, nằm trong Danh sách Danh dự Sinh nhật Nữ hoàng 2020 vào hôm thứ Hai, ngày 8 tháng 6 năm 2020.
13/06/2020(Xem: 9927)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới khi trút hơi thở cuối cùng. Nhưng chết rồi cũng chưa hết khổ. Vì tâm thức của con ngườisẽ bị nghiệp lực dẫn đi tái sanh. Nếu đời sốnghiện tại, con người biết tu hành, làm việc thiện lành tránh việc hung ác, thường tạo nhiều phước báo, thì khi chết được tái sanh làm người. Ngược lại sống ở đời với tâm địa ác độc, xấu xa, luôn gây phiền não khổ đau cho người khác,thì sau khi chết bị đọa vào một trong ba đường khổ: súc sanh, ngạ quỷ hay địa ngục. Và cứ thế hết đời này qua đời khác, chúng sanh cứ như vậy chịu trôi lăn, lặn ngụp, đắm chìm trong bể khổ đường mê, không bao giờ thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.
13/06/2020(Xem: 6879)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh đạo tinh thần dân tộc Tây Tạng nói rằng: “Âm nhạc có khả năng tiếp cận nhiều người hơn”. (‘Music has the potential to reach many more people,’) Đức Đạt Lai Lạt Ma, người gửi thông điệp về từ bi, hòa hợp và hòa bình với nụ cười đầy hỷ xả, đã cuốn hút hàng triệu Phật giáo đồ toàn cầu, đang phát hành một Album Giáo lý và Chân ngôn mật chú hòa âm phổ nhạc để đánh dấu kỷ niệm sinh nhật lần thứ 85 của Ngài vào tháng tới.
13/06/2020(Xem: 8312)
Ngay từ những ngày đầu khi mới có lệnh cách giản xã hội (social distancing) TT Trụ trì Thích Nguyên Tạng đã Việt dịch tất cả những tin tức liên quan đến đại dịch đang xảy ra tại Úc và trên thế giới nhiều lần trong ngày cho tất cả những Phật tử trong và ngoài nước trên Viber Đại Gia Đình Quảng Đức và tôi nhờ duyên may nên cũng có tên trong danh sách này . Nhưng vài ngày sau là Thầy Trụ trì đã bắt đầu livestream cho các buổi công phu khuya bắt đầu từ 5:30-6:30 a m mỗi ngày và buổi chiều tiếng đại Hồng chung như chuẩn bị cho những giờ công phu tịnh độ tối của các chùa Đại thừa khi chưa có đại dịch . Rồi sau đó là các buổi sám hối Hồng danh cũng được livestream vào tối ngày 14 âm lịch và tối 29, hay 30 âm lịch mỗi tháng . Thành tâm ngưỡng phục oai nghi của các Ngài , không có mặt Phật tử mà buổi lễ nào cũng trang nghiêm vô cùng , mãi đến 2/6 /2020 số người lạy sám hối được tăng thêm dần dần từ 5 đến 20
12/06/2020(Xem: 7906)
Khóa Tu Học Mùa Dịch Corona tại Thụy Sĩ Trần Thị Nhật Hưng Để ngăn ngừa dịch bệnh Corona quái ác không có thuốc chữa, bùng phát từ đầu năm 2020, cả thế giới chung tay đối phó kêu gọi và ra lịnh mọi người cách ly. Không ai được tụ tập, mọi tổ chức hội họp lớn, nhỏ đã dự định đều phải đình chỉ. Người này người kia gặp nhau phải giữ khoảng cách 2 mét. Trong tình trạng đó, khóa tu học thứ 12 thường niên nhân dịp nghỉ lễ Thăng Thiên từ 21-24.5.2020 của anh em Gia Đình Phật Tử (GĐPT) Thiện Trí-Thụy sĩ định tổ chức cũng cùng chung số phận. Mọi người an tâm nằm nhà nghỉ dưỡng với tâm trạng nuối tiếc.
10/06/2020(Xem: 6684)
Dương Lệ Quyên tuổi ngoại tứ tuần thuê nhà ở trọ, cha chết, chồng con không có, cuộc sống vất vả. MC Lỗ Dự gần đây có gặp gỡ Dương Lệ Quyên - cô gái từng là fan cuồng của tài tử Hong Kong Lưu Đức Hoa, để tìm hiểu về cuộc sống của cô hiện tại. Từng một thời điên cuồng theo đuổi Lưu Đức Hoa, Dương Lệ Quyên ở tuổi ngoài 40 giờ đây đã thay đổi nhiều về quan điểm, suy nghĩ. So với nhiều năm trước, trạng thái tinh thần của cô cũng tốt hơn, không bấn loạn, rối bời như trước.
08/06/2020(Xem: 7628)
"Tự do" là một thuật ngữ ngày nay thường nghe nói đến trong mọi lãnh vực: xã hội, chính trị, luật pháp, tín ngưỡng, ngôn luận, truyền thông và cả nghệ thuật. Thế nhưng đôi khi chúng ta cũng có thể tự hỏi tự do là gì, ý niệm về sự tự do phát sinh từ lúc nào trong lịch sử tiến hóa của nhân loại? Dường như trong các xã hội ngày nay ngày càng có khuynh hướng biến nó trở thành một lý tưởng, một quyền hạn thiêng liêng, như vậy thì tự do thật sự là gì, phải chăng là một thứ gì có thật?
02/06/2020(Xem: 9296)
Sáng thức dậy mở cửa nhìn ra đường thấy cảnh nhiều người qua lại tấp nập, xe cộ dập dìu xuôi ngược không hề ngưng như dòng nước chảy mãi không dứt; dòng đời cũng chỉ như thủy triều lên xuống mỗi ngày hai lượt liên lỉ kéo dài. Quan sát dòng người tất bật di chuyển ấy ta có thể tạm phân ra hai thành phần: thành phần khá giả và thành phần nghèo khó qua cách ăn mặc và phương tiện giao thông của họ rất dễ nhận ra. Có khi nào quí bạn tự hỏi tại sao nhìn số đông người lại biết thừa hay thiếu?
02/06/2020(Xem: 6485)
Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ trực tiếp với khán thính giả toàn cầu trong thời kỳ Quán đỉnh Đức Quán Thế Âm Tự tại Thế gian, được ban diệu pháp âm tại nơi cư trú của Ngài, Daharamsala vào ngày 30 và 31 tháng 6 năm 2020. Ảnh: Tenzin Jamphel. Dalailalama.com
31/05/2020(Xem: 8144)
Đôi khi một nụ cười lả lơi, một liếc mắt say đắm, một lần nắm tay bất chợt cũng có thể dẫn tới một tai họa vô cùng lớn lao. Cũng y hệt một tia lửa nhỏ có thể làm phựt cháy cả một khu rừng khổng lồ. Một thí dụ rất cụ thể: nếu ngài Anan sa ngã, số lượng kinh Phật có thể sẽ chỉ còn có phân nửa. Trí nhớ của ngài Anan rất mực siêu đẳng, nhớ hơn 10,000 Kinh Phật trong Tạng Pali.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]