Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Qua Kinh điển cuối cùng Đức Phật muốn dạy điều gì?

31/03/201621:38(Xem: 9906)
Qua Kinh điển cuối cùng Đức Phật muốn dạy điều gì?

Qua Kinh điển cuối cùng Đấng Thế-Tôn
Thích-Ca Mâu-Ni Phật muốn nhắn đến mọi
 Phật-tử điều gì?

duc-phat-1111

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

    Nam mô A-Di-Đà Phật.

Bài này tôi muốn tặng Phật-tử Xuân Trường và các bạn đồng tu là những người đã trải nghiệm cuộc đời khi tu hành ở Tây Tạng và phật-tử Phạm Oanh đang muốn kiểm nghiệm cuộc tu hành qua Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa cùng các bạn đồng tu ở Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng và các bạn đồng tu xa gần.

     Trong bài thơ mà bạn Xuân-Trường đã nói về đề tài Luân Hồi như sau:
          Kiếp xưa Tây-tạng là nhà (1),
          Giờ đây Thân-Tạng(2) ta nhà Việt nam.
          Đời ta Thể-Tạng(3) gian nan,
          Cuối đời bỏ Tạng về Làng Tây phương(4) .

   Các bạn đồng tu thân mến! 
      Tôi xin chú giải ngay bài thơ này để các bạn có thể hiễu rõ nội dung mà tác giả muốn nói đến.

1-   Kiếp xưa Tây tạng là nhà:  Đó là tác giả muôn nói cảm nhận của mình đời kiếp trước đã tu hành Mật-tông ở Tây tạng và những năm qua chính Xuân-Trường đã sống và tu hành ở  đó.

2-   Giờ đây Thân-tạng ta nhà Việt nam: đó là ý muốn nói đến cái thân tứ-đại của mình đang hiện diện, đang sống ở Việt nam.

3-   Đời ta Thể-Tạng gian nan: chính là đang nói về hoảnh cảnh cuộc sống cũng như tu hành của bản thân lúc này.

4-   Cuối đời bỏ Tạng về Làng Tây phương: Đó là khẳng định ý chí hồi đầu quy-y Tịnh Độ tu hành Đại-thừa trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, tu hành một đời để thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật.  .

     Trong bài thơ này bạn Xuân-Trường muốn nói: Thời Mạt-pháp căn cơ của chúng sinh hạ liệt, đức kém sút, tài sơ, hoàn cảnh sống vô cùng khổ cực, các bậc thiện-tri-thức càng ít nên đức Phật khi ở giai đoạn sắp Nhập diệt, Ngài vì thương xót chúng ta mà đã tuyên thuyết Kinh Phật Thuyết Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ Trang Nghiên Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Giác và khi sắp chia tay chúng ta, Ngài lại tuyên thuyết Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Vậy qua các Kinh điển cuối đời này Đấng Thế-Tôn muốn nói đến điều gì? Người tu hành phải biết tìm đến trì tụng các Kinh điển này mà ngộ nhập Phật Tri-kiến, phải biết đến những lời chỉ dạy của Đức Như-Lai. Đó là: 

    1, Với việc tuyên thuyết Kinh Phật Thuyết Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ Trang Nghiên Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Giác, Ngài muốn khuyên tất cả Phật-tử tu hành muốn thành tựu đạo quả thời Mạt-pháp để trở thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật nếu đang tu hành Thiền thì phải biết quay về Tịnh-Độ Niệm Phật Tam-muội, phải thực hành Thiền-Tịnh song tu.

    2- Với việc Đấng Thế-Tôn tuyên thuyết Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật với 3 Kinh: Kinh Chú Vô-Lượng-Thọ Chân-Ngôn và Tịnh-Độ, Kinh Vô Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân ngôn, Kinh Công Đức Bảo Sơn Đà-Ra-Ni là đức Thế-Tôn muốn nói đến người tu Mật-Tông muốn thành tựu quả vị Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật thì phải kết hợp Mật-Tịnh song tu. Nếu ai hiểu được tri-kiến của Như-Lai thì khi tụng các Kinh trên đây phải biết điều này mà y giáo phụng hành. Nhưng than ôi! Không phải ai cũng hiểu điều này vì họ có thâm nhập Kinh điển Phật dạy đâu. Khi Nghe Đấng Thế-Tôn nói Pháp Tứ-Điệu-Đế thì họ đã vội chớp lấy và tu hành để cầu quả Thanh-Văn thừa là quả vị A-La-Hàn, A-La-Hán của hành tiểu-thừa;

    Hay khi Phật nói về Thập-Nhị Nhân-Duyên nhiều người đã chớp lấy mà tu hành để chứng quả Duyên-giác thừa mà quả vị cao nhất là Bích-Chi-Phật của hàng Nhị-thừa. Chứng được các quả vị này được quả Vô-Sinh, các vị cho là đã đủ mệt mỏi, lại nhìn thấy thế-gian đầy dẫy phiền não trược, chúng sinh cang cường khó giáo hóa, đức mỏng, tài sơ lại bảo thủ, tà-tri, tà-kiến, mê tín, dị đoan v.v…phiền não nhiều như mây mù nên thối chí ngồi yên đó hưởng quả vị này mà không biết tiến lên nghiên cứu, thâm nhập tri-kiến Phật ở các Kinh điển như đã nói ở trên. Vì thế, không tiến lên được.

      Càng ở đời tiếp sau, nhất là thời cuối cùng của thời Mạt-pháp nay thì hoàn cảnh tu hành càng ngày càng tồi tệ hơn, những vị tu hành các pháp môn trên thấy thầy tu pháp môn gì cũng lại vội chớp lấy cúi đầu tu pháp môn đó mà không biết rằng căn cơ trình độ của mình không thể chứng đắc, lại hoàn cảnh xã hội, nhân sinh đã không còn phù hợp. Nhưng vì sa vào tà-tri, tà-kiến nên khi được Thiện-tri-thức chỉ dạy, họ nói: “xưa sư phụ ta tu gì nay tôi tu nấy” nên bao đời bao kiếp chẳng thể tiến bộ gì hơn, thận chí còn suy sụp hơn, đời này là Hòa thượng, đời sau là chú tiểu, đời sau nữa bỏ hẳn chẳng tu như chúng ta đang thấy hôm nay, họ không chịu nghiên cứu Kinh điển Phật, mà không chịu tiếp tục đi lên mà ngày càng suy sụp đạo hạnh là điều dễ hiểu.

     Tình trạng đó khác nào người ngoài đời thường nói: “xưa ông cha tôi làm thế nào nay tôi làm thế đó”, cha ông họ khi cúng dường ông bà cha mẹ đã giết thú vật gà, lợn, trâu, bò v.v… mê tín, dị đoan họ cũng cứ làm theo nên khi nghiệp báo đến phải đọa vào địa-ngục. 

    Vì thế, trong Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, phẩm thứ ba: Thí Dụ, đức Phật đã lấy hình ảnh ngôi nhà lửa Tam-giới để dụ cho những người con là chúng ta đã chìm đắm trong đó mà lấy công danh, địa-vị, tiền của, nhà cửa, ô tô, xe hơi, gái đẹp, nhà lầu v.v… làm niềm vui thích mà không biết rằng đó là nguồn cơn của Tham, sân, si dẫn ta vào nghiệp chướng tội báo mà đọa vào địa ngục khó có ngày ra, hay ngay cả được nhập vào hành Tiên, Thánh, khi hết phước báo lại phải đầu thai làm người trần, lại tiếp tục sinh tử luân hồi không dứt mà họ không biết cứ vậy say sưa, rảo chơi như mấy người con trong nhà lửa mà không biết sợ.

     Hoặc khi chứng quả Thanh-Văn, Duyên-giác cho là đủ chẳng chịu tu hành tiếp, ngồi ỳ nới quả vị nhỏ nhọi này chẳng biết tiến vào Đại-thừa, làm việc lợi ích chúng sinh, mở lòng từ bi rộng lớn, chuyển bánh xe pháp luân, mà tu hành thành Bồ-Tát Bất-Thối thành Phật như lời Phật dạy.

      Đức Phật đã phải lấy hình ảnh Hóa thành mà khuyên nhủ chẳng phải hàng phàm phu mà ngay cả người tu hành tiểu-thừa quả Thanh-Văn, Duyên-Giác nếu họ muốn thành Bồ-Tát, thành Phật thì phải đi tiếp, ngôi nhà giữa sa mạc đây là Phật hóa ra đó thôi, nó sẽ phải hoại tan, muốn tìm quả báu phải đứng lên mà đi tiếp. Và cuối cùng chính là Phật đã cho chúng ta Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật mà trong đó có ba Kinh là: Kinh Chú Vô-Lượng-Thọ Chân-Ngôn và Tịnh-Độ, Kinh Vô Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân ngôn, Kinh Công Đức Bảo Sơn Đà-Ra-Ni để lấy đây tu hành mà về Tây phương Cực-Lạc để một đời thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật.  Vì thế trong phẩm thứ hai phương Tiện, Phật Thích-Ca Mâu-Ni nói: “Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu, vui đẹp lòng chúng.

    Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng-hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

     Thôi, Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như:

Chín bộ pháp của Ta
Thuận theo chúng sinh nói
Vào Đại-thừa làm gốc
Nên mới nói Kinh này.
Có Phật-tử tâm tịnh
Êm dịu cũng lợi căn,
Nơi vô lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng Phật-tử này
Nói Kinh Đại-thừa đây.
Ta ghi cho người đó
Đời sau thành Phật-đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh-giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia
Nên vì nói Đại-thừa.
Thanh-Văn hoặc Bồ-Tát,
Nghe Ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Đều thành Phật không nghi.

Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dẫn dắt các chúng sinh
Vì nói trí tuệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳng phải chân.
Trọn chẳng đem tiểu-thừa
Mà tế độ chúng sinh,
Phật tự trụ Đại-thừa
Như pháp của mình được
Định, tuệ, lực trang-nghiêm
Dùng đây độ chúng sinh.
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba-thừa
Tất cả các Thế-Tôn
Đều nói đạo nhất-thừa.
Nay trong đại-chúng này
Đều nên trừ nghi-lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa…
Vô-số kiếp đã qua
Vô lượng Phật diệt-độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được,
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí dụ
Vô-số ức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng, 
Các đức Thế-Tôn đó
Đều nói pháp Nhất-thừa
Độ vô lượng chúng sinh
Khiến vào nơi Phật-đạo.

            Các bạn đồng tu thân mến! 

   Qua những lời tâm sự của bạn Xuân-Trường người Phật-tử đã nhiều năm tu hành tại Tây Tạng nói về tâm sự khi dời Tây Tạng về Việt nam tu hành Tịnh-Độ tại Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng nên tôi chia sẻ với các bạn về những lời này. Chúc các bạn tinh tấn tụng Kinh niệm Phật để mau thâm nhập vào tri-kiến Phật, tu hành mau thành tựu quả vị Bồ-Tát, thành Phật. Muốn vậy trước tiên phải tinh tấn niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, làm các việc làm công đức, hoằng dương Phật pháp, in ấn Kinh điển, giúp đỡ người nghèo khổ v.v…lấy đây hội đủ phước duyên để khi lâm chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu, mau thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật. 

      Năm mới chúng ta hãy khuyến tấn động viên nhau  tinh tấn trì niệm danh hiệu Nam mô A-Di-Đà Phật, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, phát tâm Bồ-Đề, sám hối làm lành, hoằng dương Phật pháp để nắm chắc phần quyết định khi lâm chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng Thánh chúng tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà, sinh trên sen báu.

       Các bạn đồng tu thân mến!  Tôi đã nhìn thấy nhiều đóa sen đẹp đang nở trên ao bẩy báu, nước tám công đức mà các bạn gieo trồng trên Ao Tây phương Cực-Lạc đấy. Hãy chăm chút cho hoa sen càng thêm lớn, lỗng lẫy để sau này ta về đó tọa trên sen này nghe Phật thuyết pháp nhé, xin đừng để nó lụi tàn đi. Chín phẩm sen vàng đang đợi chúng ta dự phần đấy.  


Ngày mùng 5 tết 2016

Trân trọng:

Quảng Tịnh  Cư-sỹ
qt-cu-sy

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5595)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5516)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6913)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4298)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9120)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5457)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5082)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5676)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6161)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5173)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]