Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Qua Kinh điển cuối cùng Đức Phật muốn dạy điều gì?

31/03/201621:38(Xem: 10381)
Qua Kinh điển cuối cùng Đức Phật muốn dạy điều gì?

Qua Kinh điển cuối cùng Đấng Thế-Tôn
Thích-Ca Mâu-Ni Phật muốn nhắn đến mọi
 Phật-tử điều gì?

duc-phat-1111

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật.

    Nam mô A-Di-Đà Phật.

Bài này tôi muốn tặng Phật-tử Xuân Trường và các bạn đồng tu là những người đã trải nghiệm cuộc đời khi tu hành ở Tây Tạng và phật-tử Phạm Oanh đang muốn kiểm nghiệm cuộc tu hành qua Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa cùng các bạn đồng tu ở Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng và các bạn đồng tu xa gần.

     Trong bài thơ mà bạn Xuân-Trường đã nói về đề tài Luân Hồi như sau:
          Kiếp xưa Tây-tạng là nhà (1),
          Giờ đây Thân-Tạng(2) ta nhà Việt nam.
          Đời ta Thể-Tạng(3) gian nan,
          Cuối đời bỏ Tạng về Làng Tây phương(4) .

   Các bạn đồng tu thân mến! 
      Tôi xin chú giải ngay bài thơ này để các bạn có thể hiễu rõ nội dung mà tác giả muốn nói đến.

1-   Kiếp xưa Tây tạng là nhà:  Đó là tác giả muôn nói cảm nhận của mình đời kiếp trước đã tu hành Mật-tông ở Tây tạng và những năm qua chính Xuân-Trường đã sống và tu hành ở  đó.

2-   Giờ đây Thân-tạng ta nhà Việt nam: đó là ý muốn nói đến cái thân tứ-đại của mình đang hiện diện, đang sống ở Việt nam.

3-   Đời ta Thể-Tạng gian nan: chính là đang nói về hoảnh cảnh cuộc sống cũng như tu hành của bản thân lúc này.

4-   Cuối đời bỏ Tạng về Làng Tây phương: Đó là khẳng định ý chí hồi đầu quy-y Tịnh Độ tu hành Đại-thừa trì danh niệm Phật A-Di-Đà, cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, tu hành một đời để thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật.  .

     Trong bài thơ này bạn Xuân-Trường muốn nói: Thời Mạt-pháp căn cơ của chúng sinh hạ liệt, đức kém sút, tài sơ, hoàn cảnh sống vô cùng khổ cực, các bậc thiện-tri-thức càng ít nên đức Phật khi ở giai đoạn sắp Nhập diệt, Ngài vì thương xót chúng ta mà đã tuyên thuyết Kinh Phật Thuyết Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ Trang Nghiên Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Giác và khi sắp chia tay chúng ta, Ngài lại tuyên thuyết Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật. Vậy qua các Kinh điển cuối đời này Đấng Thế-Tôn muốn nói đến điều gì? Người tu hành phải biết tìm đến trì tụng các Kinh điển này mà ngộ nhập Phật Tri-kiến, phải biết đến những lời chỉ dạy của Đức Như-Lai. Đó là: 

    1, Với việc tuyên thuyết Kinh Phật Thuyết Đại-Thừa Vô-Lượng-Thọ Trang Nghiên Thanh-Tịnh Bình-Đẳng Giác, Ngài muốn khuyên tất cả Phật-tử tu hành muốn thành tựu đạo quả thời Mạt-pháp để trở thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật nếu đang tu hành Thiền thì phải biết quay về Tịnh-Độ Niệm Phật Tam-muội, phải thực hành Thiền-Tịnh song tu.

    2- Với việc Đấng Thế-Tôn tuyên thuyết Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật với 3 Kinh: Kinh Chú Vô-Lượng-Thọ Chân-Ngôn và Tịnh-Độ, Kinh Vô Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân ngôn, Kinh Công Đức Bảo Sơn Đà-Ra-Ni là đức Thế-Tôn muốn nói đến người tu Mật-Tông muốn thành tựu quả vị Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật thì phải kết hợp Mật-Tịnh song tu. Nếu ai hiểu được tri-kiến của Như-Lai thì khi tụng các Kinh trên đây phải biết điều này mà y giáo phụng hành. Nhưng than ôi! Không phải ai cũng hiểu điều này vì họ có thâm nhập Kinh điển Phật dạy đâu. Khi Nghe Đấng Thế-Tôn nói Pháp Tứ-Điệu-Đế thì họ đã vội chớp lấy và tu hành để cầu quả Thanh-Văn thừa là quả vị A-La-Hàn, A-La-Hán của hành tiểu-thừa;

    Hay khi Phật nói về Thập-Nhị Nhân-Duyên nhiều người đã chớp lấy mà tu hành để chứng quả Duyên-giác thừa mà quả vị cao nhất là Bích-Chi-Phật của hàng Nhị-thừa. Chứng được các quả vị này được quả Vô-Sinh, các vị cho là đã đủ mệt mỏi, lại nhìn thấy thế-gian đầy dẫy phiền não trược, chúng sinh cang cường khó giáo hóa, đức mỏng, tài sơ lại bảo thủ, tà-tri, tà-kiến, mê tín, dị đoan v.v…phiền não nhiều như mây mù nên thối chí ngồi yên đó hưởng quả vị này mà không biết tiến lên nghiên cứu, thâm nhập tri-kiến Phật ở các Kinh điển như đã nói ở trên. Vì thế, không tiến lên được.

      Càng ở đời tiếp sau, nhất là thời cuối cùng của thời Mạt-pháp nay thì hoàn cảnh tu hành càng ngày càng tồi tệ hơn, những vị tu hành các pháp môn trên thấy thầy tu pháp môn gì cũng lại vội chớp lấy cúi đầu tu pháp môn đó mà không biết rằng căn cơ trình độ của mình không thể chứng đắc, lại hoàn cảnh xã hội, nhân sinh đã không còn phù hợp. Nhưng vì sa vào tà-tri, tà-kiến nên khi được Thiện-tri-thức chỉ dạy, họ nói: “xưa sư phụ ta tu gì nay tôi tu nấy” nên bao đời bao kiếp chẳng thể tiến bộ gì hơn, thận chí còn suy sụp hơn, đời này là Hòa thượng, đời sau là chú tiểu, đời sau nữa bỏ hẳn chẳng tu như chúng ta đang thấy hôm nay, họ không chịu nghiên cứu Kinh điển Phật, mà không chịu tiếp tục đi lên mà ngày càng suy sụp đạo hạnh là điều dễ hiểu.

     Tình trạng đó khác nào người ngoài đời thường nói: “xưa ông cha tôi làm thế nào nay tôi làm thế đó”, cha ông họ khi cúng dường ông bà cha mẹ đã giết thú vật gà, lợn, trâu, bò v.v… mê tín, dị đoan họ cũng cứ làm theo nên khi nghiệp báo đến phải đọa vào địa-ngục. 

    Vì thế, trong Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa, phẩm thứ ba: Thí Dụ, đức Phật đã lấy hình ảnh ngôi nhà lửa Tam-giới để dụ cho những người con là chúng ta đã chìm đắm trong đó mà lấy công danh, địa-vị, tiền của, nhà cửa, ô tô, xe hơi, gái đẹp, nhà lầu v.v… làm niềm vui thích mà không biết rằng đó là nguồn cơn của Tham, sân, si dẫn ta vào nghiệp chướng tội báo mà đọa vào địa ngục khó có ngày ra, hay ngay cả được nhập vào hành Tiên, Thánh, khi hết phước báo lại phải đầu thai làm người trần, lại tiếp tục sinh tử luân hồi không dứt mà họ không biết cứ vậy say sưa, rảo chơi như mấy người con trong nhà lửa mà không biết sợ.

     Hoặc khi chứng quả Thanh-Văn, Duyên-giác cho là đủ chẳng chịu tu hành tiếp, ngồi ỳ nới quả vị nhỏ nhọi này chẳng biết tiến vào Đại-thừa, làm việc lợi ích chúng sinh, mở lòng từ bi rộng lớn, chuyển bánh xe pháp luân, mà tu hành thành Bồ-Tát Bất-Thối thành Phật như lời Phật dạy.

      Đức Phật đã phải lấy hình ảnh Hóa thành mà khuyên nhủ chẳng phải hàng phàm phu mà ngay cả người tu hành tiểu-thừa quả Thanh-Văn, Duyên-Giác nếu họ muốn thành Bồ-Tát, thành Phật thì phải đi tiếp, ngôi nhà giữa sa mạc đây là Phật hóa ra đó thôi, nó sẽ phải hoại tan, muốn tìm quả báu phải đứng lên mà đi tiếp. Và cuối cùng chính là Phật đã cho chúng ta Kinh Niệm Phật Ba-La-Mật mà trong đó có ba Kinh là: Kinh Chú Vô-Lượng-Thọ Chân-Ngôn và Tịnh-Độ, Kinh Vô Lượng-Thọ Tông-Yếu Chân ngôn, Kinh Công Đức Bảo Sơn Đà-Ra-Ni để lấy đây tu hành mà về Tây phương Cực-Lạc để một đời thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật.  Vì thế trong phẩm thứ hai phương Tiện, Phật Thích-Ca Mâu-Ni nói: “Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu, vui đẹp lòng chúng.

    Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng-hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

     Thôi, Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như:

Chín bộ pháp của Ta
Thuận theo chúng sinh nói
Vào Đại-thừa làm gốc
Nên mới nói Kinh này.
Có Phật-tử tâm tịnh
Êm dịu cũng lợi căn,
Nơi vô lượng các Phật
Mà tu đạo sâu mầu,
Vì hàng Phật-tử này
Nói Kinh Đại-thừa đây.
Ta ghi cho người đó
Đời sau thành Phật-đạo
Bởi thâm tâm niệm Phật
Tu trì tịnh-giới vậy
Hạng này nghe thành Phật
Rất mừng đầy khắp mình,
Phật biết tâm của kia
Nên vì nói Đại-thừa.
Thanh-Văn hoặc Bồ-Tát,
Nghe Ta nói pháp ra
Nhẫn đến một bài kệ
Đều thành Phật không nghi.

Trong cõi Phật mười phương
Chỉ có một thừa pháp
Không hai cũng không ba
Trừ Phật phương tiện nói
Chỉ dùng danh tự giả
Dẫn dắt các chúng sinh
Vì nói trí tuệ Phật.
Các Phật ra nơi đời
Chỉ một việc này thực
Hai thứ chẳng phải chân.
Trọn chẳng đem tiểu-thừa
Mà tế độ chúng sinh,
Phật tự trụ Đại-thừa
Như pháp của mình được
Định, tuệ, lực trang-nghiêm
Dùng đây độ chúng sinh.
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba-thừa
Tất cả các Thế-Tôn
Đều nói đạo nhất-thừa.
Nay trong đại-chúng này
Đều nên trừ nghi-lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa…
Vô-số kiếp đã qua
Vô lượng Phật diệt-độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được,
Các Thế-Tôn như thế
Các món duyên thí dụ
Vô-số ức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng, 
Các đức Thế-Tôn đó
Đều nói pháp Nhất-thừa
Độ vô lượng chúng sinh
Khiến vào nơi Phật-đạo.

            Các bạn đồng tu thân mến! 

   Qua những lời tâm sự của bạn Xuân-Trường người Phật-tử đã nhiều năm tu hành tại Tây Tạng nói về tâm sự khi dời Tây Tạng về Việt nam tu hành Tịnh-Độ tại Làng Phổ-Đà Liên-Hoa Tịnh-Độ thành phố Hải phòng nên tôi chia sẻ với các bạn về những lời này. Chúc các bạn tinh tấn tụng Kinh niệm Phật để mau thâm nhập vào tri-kiến Phật, tu hành mau thành tựu quả vị Bồ-Tát, thành Phật. Muốn vậy trước tiên phải tinh tấn niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, làm các việc làm công đức, hoằng dương Phật pháp, in ấn Kinh điển, giúp đỡ người nghèo khổ v.v…lấy đây hội đủ phước duyên để khi lâm chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc, sinh trên sen báu, mau thành Bồ-Tát Bất-Thối, thành Phật. 

      Năm mới chúng ta hãy khuyến tấn động viên nhau  tinh tấn trì niệm danh hiệu Nam mô A-Di-Đà Phật, một lòng cầu nguyện vãng sinh Tây phương Cực-Lạc, phát tâm Bồ-Đề, sám hối làm lành, hoằng dương Phật pháp để nắm chắc phần quyết định khi lâm chung được Phật A-Di-Đà và đức Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát cùng hàng Thánh chúng tới tiếp-dẫn về Tây phương Cực-Lạc của Phật A-Di-Đà, sinh trên sen báu.

       Các bạn đồng tu thân mến!  Tôi đã nhìn thấy nhiều đóa sen đẹp đang nở trên ao bẩy báu, nước tám công đức mà các bạn gieo trồng trên Ao Tây phương Cực-Lạc đấy. Hãy chăm chút cho hoa sen càng thêm lớn, lỗng lẫy để sau này ta về đó tọa trên sen này nghe Phật thuyết pháp nhé, xin đừng để nó lụi tàn đi. Chín phẩm sen vàng đang đợi chúng ta dự phần đấy.  


Ngày mùng 5 tết 2016

Trân trọng:

Quảng Tịnh  Cư-sỹ
qt-cu-sy

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/10/2013(Xem: 9102)
Ngày 27, tháng 9, năm 2013 – “Nếu bạn có thể học đi xe đạp bạn có thể học làm thế nào để được hạnh phúc,” nhà sư Phật giáo 67 tuổi và là người hạnh phúc nhất trên thế giới nói. Khi còn nhỏ, nhà thơ Andre Breton, nhà làm phim Louis Buñuel và nhạc sĩ Igor Stravinsky là những vị khách thường xuyên của gia đình triết gia Ricard. Tuy vậy, nhận thấy đặc tính của những người bạn của song thân không có vẻ gì là hạnh phúc hơn nên Ngài đã tìm đến Hy mã lạp sơn bỏ sau lưng công việc của một nhà sinh học tại Viện Pasteur và thay đổi cuộc đời qua thiền tập. Tính đến lần cuối cùng, Ngài đã đạt được hơn 10,000 giờ đồng hồ. Phương pháp chụp MRI tinh tế tại phòng nghiên cứu về não bộ tại Wisconsin đã cho thấy mức lạc quan siêu đẳng và hầu như không có chút cảm nhận tiêu cực nào của Ngài. Ngài nói: “Tôi không thấy mọi thứ đều màu hồng nhưng những thăng trầm của cuộc sống không trụ trong tôi theo cách của đời thường.”
19/10/2013(Xem: 13340)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
17/10/2013(Xem: 9103)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên và năm 1917 lúc Ngài 22 tuổi đã xuất gia tu học tại chùa Quang Lộc tỉnh Quảng Ngãi với Pháp Danh là Chơn Qúy. Ngài thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh thuộc thế hệ truyền thừa thứ 7. Ngài sinh năm 1895 và viên tịch năm 1961.
17/10/2013(Xem: 40950)
50 năm qua, cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963 chống chính quyền Đệ nhất Cọng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo đã đàn áp Phật giáo. Sự việc đã lui về quá khứ nhưng vết thương trong lòng dân tộc, trong tim của Phật tử Việt Nam thì vẫn còn đó và có lẽ mãi còn trong lịch sử đau thương mà cũng lắm hào hùng.
17/10/2013(Xem: 31137)
Là nhân chứng sống động của lịch sử, của dòng đời, ai cũng thế. Sinh ra giữa cõi trần, có tai phải nghe, có mắt phải thấy, dù muốn nghe, muốn thấy hay không. Sống, có óc phải suy tư, có miệng phải nói, có chân phải đi, có tay phải làm. Nhưng phải biết nên nghĩ gì, nói gì, đi đâu, làm gì ! Sống, có bạn để tâm sự, có con để trao truyền. Tâm sự chuyện gì, trao truyền cái gì? Tôi tự hỏi và trải lòng ra cho ai muốn thấy tim tôi đang nhảy, phổi tôi đang thở và mỗi tế bào sinh diệt trong bất diệt của chân như. Chỉ xin đừng làm bác sĩ giải phẫu chân dung của tôi, nhưng nếu muốn thì cứ.
17/10/2013(Xem: 26615)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 42124)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
16/10/2013(Xem: 20083)
Có lẽ, trong thời gian qua, trong cuộc sống vật chất tương đối đầy đủ dù chưa dư thừa với đa số, nên con người cần một cái gì đó về đạo đức tâm linh, muốn trở về nguồn cội, nên tưởng nhớ nhiều về tổ tiên ông bà mà gần gũi nhất là cha mẹ, anh em huyết thống. Tập sách nhỏ này, tôi viết để tưởng nhớ mẹ tôi, nhưng may mắn trong cái riêng ấy lại hòa nhập được với cái chung của những tấm lòng hiếu kính. Do đó, rất nhiều người tâm đắc muốn có, muốn đọc, có người vừa gọi điện vừa khóc, tôi cũng chạnh lòng nhớ mẹ mà khóc theo, đa số qua điện đàm yêu cầu tái bản, vâng lời, tôi cũng cố gắng tái bản 2 lần rồi.
14/10/2013(Xem: 20001)
Nàng thở ra một hơi thật dài, mặt sáng lên, vui mừng nói: “Bây giờ em mới thực sự hết lo về chuyện cô cán bộ ấy. Nhưng không biết cô ấy và ông thầy kia có thoát được thật không hay là cuối cùng lại bị bắt? Em lo cho họ quá.” “Hy vọng họ thoát, vì từ đó về sau, không nghe cán bộ hay tù nhân trong trại đá động gì tới họ nữa.”
12/10/2013(Xem: 20636)
Có những ngày trong đời, người ta thả trôi lòng mình theo dòng cuốn dập dềnh bất định của bao cảm giác. Vui thì cười nói hồn nhiên, lộ vẻ sung sướng, buồn thì mặt dàu dàu cúi xuống để nước mắt rơi thành dòng. Điều đó chẳng có gì lạ, Còn vui buồn, còn cười khóc được thì hãy còn là con người.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]