Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 2: Các cách hiểu biết khác nhau

26/03/201615:05(Xem: 7284)
Bài 2: Các cách hiểu biết khác nhau

Các cách hiểu biết khác nhau
Upasika Kee Nanayon

co the con nguoiChúng ta phải làm thế nào để có thể quán thấy thật minh bạch năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) - tức là cả cái khối "thân-xác-tâm-thức" gây ra đủ mọi thứ khổ đau và căng thẳng - hầu giúp mình loại bỏ khỏi tâm thức mình mọi sự bám víu vào chúng? Tại sao các sinh viên y khoa hiểu biết thật rành rõi những gì bên trong cơ thể - chẳng hạn như ruột, gan, thận, v.v. - kể cả từng chi tiết một, thế nhưng không hề kinh tởm và tỉnh ngộ (disenchantment) (không suy nghĩ gì cả trước cái khối thịt, xương, máu, mủ đầy bệnh tật và khổ đau trước mặt mình)?  Tại sao lại như vậy?  Tại sao các người nhà quàn suốt ngày tẩm liệm xác chết nhưng không hề nhận biết được một chút gì khác sâu sắc hơn? Điều này chứng tỏ là có một thể loại hiểu biết sâu kín (insight) rất khó đạt được. Nếu nhìn vào các thứ ấy mà không phát huy được sự tỉnh thức (mindfulness/ tỉnh giác) và chú tâm sâu xa giúp mình quán thấy thật minh bạch những thứ ấy là gì, thì mình cũng chỉ sẽ trông thấy những gì bên ngoài. Sự hiểu biết hời hợt đó sẽ không thể thấm thật sâu vào nội tâm mình được, và tâm thức sẽ tiếp tục nắm bắt mọi thứ bám víu. 

          Trái lại, nếu tâm thức đạt được sự hiểu biết sâu sắc giúp mình buông bỏ những sự bám víu vào thân xác và tâm thức, thì nó sẽ đạt được con đường và quả đưa đến Nibbana (Niết-bàn). Điều này cho thấy là có nhiều thứ hiểu biết khác nhau. Chúng ta không cần phải biết rành rõi từng chi tiết một của cơ thể như một bác sĩ giải phẩu hiện đại ngày nay, mà chỉ cần hiểu thân xác mình gồm có bốn thành phần - đất, nước, lửa và khí - thêm vào đó là các thành phần không gian và tri thức. Nếu hiểu đúng được điều đó là cũng đủ, bấy nhiêu đó cũng thừa giúp chúng ta đạt được con đường và quả mang lại từ con đường. Trong khi đó nhiều người khác dù biết rành rõi từng chi tiết trên thân thể và thừa sức mổ xẻ một bệnh nhân, nhưng trên phương diện siêu nhiên thì họ lại chẳng đạt được một sự hiểu biết nào cả.

            Vậy chúng ta nên phân tích từng thành phần trên thân thể hầu giúp mình hiểu biết sâu xa hơn về những thứ ấy. Và nếu làm được như thế, thì mỗi khi có sự biến đổi trên thân xác (chẳng hạn như ốm đau, khỏe mạnh,bị tật nguyền, già nua,..) và trong tâm thần (buồn khổ, lo sợ, kể cả sung sướng, hạnh phúc...), thì mình cũng sẽ không quá bám víu vào những thứ ấy. Nếu không thì những sự bám víu của mình sẽ rất mạnh và dai dẳng, đưa mình đến các thể dạng hiện hữu khác trong quá trình của chu kỳ tái sinh.     

            Hiện tại là một dịp thuận lợi (được làm người và hiện đang khỏe mạnh), vậy chúng ta cũng nên quan sát thân thể mình và tìm hiểu nó thật chi tiết. Hãy sử dụng năm đối tượng thiền định căn bản: tóc, lông, móng (móng tay, móng chân), răng và da (đây là phép thiền định dựa vào sự chú tâm về 32 thành phần của cơ thể: thịt xương, máu, mủ, ruột gan,v.v, được phân chia thành 6 nhóm, và nhóm thứ nhất gồm: tóc, lông, móng, răng, da). Các bạn hãy quan sát chúng thật chăm chú, lần lượt từng thứ một. Không cần phải chú tâm vào cả năm thứ một lúc. Nếu tập trung sự chú tâm vào tóc thì các bạn sẽ nhận biết được là nó thuộc vào thành phần đất (thành phần cứng của cơ thể), chân tóc ngập trong máu và bạch huyết (lymph) bên dưới lớp da. Nó chẳng có gì hấp dẫn trên phương diện màu sắc, mùi và vị trí mà nó hiện đang có. Nếu phân tích và suy nghĩ theo cách đó thì chúng ta sẽ không bị chúng đánh lừa để mà xem đấy là là tóc "của tôi", móng "của tôi", răng "của tôi" và da của tôi (nếu diễn đạt xa hơn và nhìn thấy các sợi tóc ấy thật mượt mà, óng ả, chải khéo, vắt ngang vai..., thì lại càng bị chúng đánh lừa mình nhiều hơn nữa).

            Tất cả các thành phần của cơ thể đều được cấu tạo bởi đất hòa chung với nước, khí và lửa (thành phần nước gồm có: máu huyết, nước mắt,chất nhờn, nước miềng, nước tiểu...; khí: hơi thở, các chỗ trống trong cơ thể..; lửa: hơi ấm). Nếu chúng chỉ đơn thuần là đất thì không thể hiện hữu và tạo ra được gì cả (một hiện tượng chỉ có thể hiện hữu bằng cách liên kết với các hiện tượng khác), bởi vì mỗi thành phần của cơ thể phải gồm tất cả bốn thứ ấy (một thể dạng cấu hợp),thì chúng mới tạo ra được một thân thể (thân thể cũng là một sự cấu hợp nhưng ở một cấp bậc khác). Ngoài ra lại còn có thêm hiện tượng tâm thần, tức tâm thức, giữ vai trò chỉ huy. Chúng là những thứ hiện ra đúng với quy luật thiên nhiên - tức là các hiện tượng vật lý và tâm thần: hiện ra, đổi thay và biến mất - thế nhưng chúng ta thì cứ nắm bắt lấy chúng và xem thân xác là "của mình", các hiện tượng tâm thần (tư duy, xúc cảm) là "của mình". Chúng ta tin rằng tất cả là của mình, nhất thiết là của mình. Vậy nếu không biết suy nghĩ khi nhìn vào các thứ ấy hầu nhận thấy chúng đúng với bản chất của chúng là như thế, thì chúng ta sẽ khó tránh khỏi bám víu vào chúng.

            Tóm lại thiền định cũng chỉ là: nhìn thấy thật minh bạch mọi sự vật đúng với chúng là như thế, nhưng không có nghĩa là chuyển hết chủ đề này sang chủ đề khác, bởi vì đấy chỉ đơn giản là cách khiến mình chẳng học hỏi được gì cả. Thế nhưng bẩm tánh của mình, dưới sự chi phối của vô minh và ảo giác, thường khiến mình không chịu quán xét cẩn thận, mà chỉ tìm cách tạo ra thêm đủ mọi thứ vấn đề mang lại các khó khăn khác mà thôi, vì thế nên chúng ta liên tục suy nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia. Đấy là cách cho thấy tại sao chúng ta luôn sống trong tình trạng vô minh và đần độn.

            Vậy thì tại sao chúng ta lại cứ muốm tìm hiểu thật nhiều thứ? Chẳng qua là vì những thứ ấy phù hợp với các sự thèm muốn của mình. Khi nào trông thấy minh bạch được các sự vật đúng với chúng chỉ là như thế, thì khi đó mới mong buông bỏ được mọi sự thèm muốn (craving/nắm bắt, bám víu, thèm khát) của mình, bởi vì sự thèm muốn luôn tìm cách che đậy không cho mình trông thấy hiện thực là gì. Những sự thèm muốn ấy biến đổi không ngừng, liên tục mang lại sự mới mẻ, và mỗi lần như thế thì lại giăng ra thêm các bẫy mới, khiến mình liên tục bị đánh lừa, và cuối cùng thì chỉ biết tìm hiểu và suy nghĩ về những thứ mang lại thêm hoang mang và khổ đau cho tâm thức mà thôi. Và đấy cũng là những gì mà sự thèm muốn cố tình tạo ra cho mình. Do đó mọi nỗ lực loại bỏ hoang mang và khổ đau cho tâm thức luôn là một hình thức đi ngược lại với sự thèm muốn (tức gây ra chướng ngại và phiền toái cho sự thèm muốn khiến đưa đến một sự bất toai nguyện nào đó. Nói một cách khác là  tìm cách loại bỏ hoang mang và khổ đau trong tâm thức là một cách gián tiếp ngăn chận và đè nén sự thèm muốn. Sự nghịch lý hay mâu thuẫn kín đáo đó càng làm gia tăng thêm sự hoang mang và khổ đau cho tâm thức mà thôi. Sự thèm muốn bị đè nén sẽ biến dạng qua nhiều hình thức xúc cảm khác nhau mà mình không ý thức và chủ động được. Do đó nếu muốn loại bỏ khổ đau và hoang mang thì phải nhìn thẳng vào sự thèm muốn của mình để hóa giải các nguyên nhân sâu xa nhất tạo ra nó).

            Đấy là nguyên nhân tại sao tâm thức lại luôn tìm cách chuyển sang các thứ khác để tìm hiểu, để rồi bị đánh lừa, và đấy cũng là nguyên nhân cho thấy tại sao tâm thức lại cứ liên tục nắm bắt hết thứ này đến thứ khác. Vậy, khi nào tâm thức không còn hiểu được chính nó nữa, thì các bạn phải phát huy một sự cố gắng đúng thật hầu nhận thấy những gì bên trong tâm thức (các cảm nhận, tư duy, xúc cảm, các sự tạo tác tâm thần) không phải là "mình" và cũng không phải là "của mình" (ý nghĩa của câu này đáng để suy tư và thiền định, hầu ứng dụng vào cuộc sống thường nhật của mình. Mỗi khi hoang mang, lo sợ, giận dữ, thèm khát, mong cầu, hy vọng, kể cả hân hoan, hạnh phúc... bùng lên thì hãy nghĩ đến chúng không phải là "mình", cũng không phải là "của mình" và không để cho chúng sai khiến và chỉ huy mình. Chúng chỉ là những thứ tạo tác tâm thần phát sinh từ sự vận hành của vô minh trong tâm thức mình mà thôi). Không nên để cho tâm thức mù tịt về sự hiểu biết sự thật ấy, và phải xem sự thật đó như một quy luật bên trong chính mình (có nghĩa là phải luôn tự nhắc nhở mình là những gì xảy ra trong tâm thức - các cảm nhận, xúc cảm, cảm tính... - không phải là "mình" cũng không phải là "của mình", mà chỉ là các "hiện tượng" dù ở bên trong nội tâm mình nhưng cũng không khác gì các hiện tượng khác thuộc môi trường bên ngoài: tức là tất cả đều hiện ra, đổi thay và biến mất)! Nếu tâm thức không nắm vững được sự thật về vô thường, khổ đau và vô ngã bên trong chính nó (vô thường, khổ đau và vô ngã không phải là chỉ đối với các hiện tượng bên ngoài mà đối với cả tư duy, xúc cảm và các sự tạo tác tâm thần bên trong tâm thức mình), thì nó sẽ không sao loại bỏ được khổ đau cho chính nó. Sự hiểu biết của nó chỉ là sự hiểu biết thường tình, và nó cũng chỉ biết bước theo con đường thường tình đó của thế giới. Nó không trông thấy được con đường và quả mang lại từ con đường hầu giúp nó đạt được Nibbana(Niết-bàn).

            Chính đấy là chỗ khác biệt giữa những gì của thế giới thường tình và những gì thuộc thể dạng siêu nhiên (the transcendent). Nếu các bạn hiểu được vô thường, sự bất toại nguyện (khổ đau) và vô ngã (không có "cái tôi" hay "linh hồn") ở một cấp bậc sâu sắc nhất của chúng, thì đấy chính là thể dạng siêu nhiên. Nếu các bạn chưa thấu triệt được từng chi tiết thật tinh tế của chúng thì các bạn vẫn còn ở vào cấp bậc của thế giới thường tình.

            Đức Phật đưa ra rất nhiều bài thuyết giảng, thế nhưng Ngài luôn quay về những gì trên đây. Nguyên tắc căn bản nhất trong việc tu tập là bốn nền tảng của sự tỉnh giác (tức là ý thức được bốn thành phần tạo ra một cá thể gồm đất, nước, lửa và khí)  và Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế), thế nhưng tất cả cũng chỉ xoay quanh các đặc tính vô thường, bất toại nguyện (khổ đau) và vô ngã(không có "cái tôi").  Dù có ra sức tìm hiểu thật nhiều nguyên lý (các nguyên tắc, giáo lý...) thì cuối cùng mình cũng không thể hiểu minh bạch được "sự thật" đúng với nó. Tóm lại, thay vì cố gắng tìm hiểu thật nhiều thì chỉ nên chú tâm tìm hiểu thật ít, cuối cùng nhất định các bạn sẽ đạt được một sự quán thấy sâu sắc và đúng đắn. Chỉ vì muốn biết thật nhiều nên người ta bị đánh lừa (càng tham lam càng dễ bị lầm lẫn). Chúng ta chạy theo hết sự hiểu biết lầm lẫn này đến sự hiểu biết lầm lẫn khác, suy nghĩ đủ mọi thứ và dán lên cho chúng các nhãn hiệu (các dòng chữ) đủ loại, trong khi đó nếu đạt được sự hiểu biết tập trung và chuyên biệt, thì sự hiểu biết ấy tất sẽ mang tính cách tuyệt đối (absolute/hoàn hảo, toàn diện, trọn vẹn). Sự hiểu biết này là một sự hiểu biết thường xuyên hướng thẳng vào một thứ duy nhất. Không bắt buộc phải hiểu biết thật nhiều thứ, chỉ cần hiểu biết thật tường tận một thứ là cũng đủ, mọi thứ khác rồi cũng sẽ tập trung vào đấy (chằng hạn chỉ cần quán thấy được vô thường thật sâu sắc thì chúng ta cũng có thể quán thấy được toàn thể thế giới hiện tượng này).

Vài lời ghi chú của người dịch

            Mỗi khi nhìn vào bất cứ một sự vật hay một hiện tượng nào thì hành động ấy tất sẽ mang lại cho chúng ta một sự "hiểu biết". Sự "hiểu biết" đó thường xảy ra một cách tự động tương tự như một "phản ứng" theo "thói quen". Sự "hiểu biết" đó có vẻ rất tự nhiên và hợp lý, khiến mình không hề thắc mắc hay tìm hiểu xem "ý nghĩa" của nó là gì, từ đâu phát sinh ra nó?  Sự "hiểu biết" ấy thật ra được hình thành từ một quá trình vận hành rất phức tạp trong tâm thức mình. Dù rằng chúng ta nhìn vào một hiện tượng bên ngoài đơn giản bằng đôi mắt, thế nhưng trên thực tế tâm thức tiếp nhận hình ảnh của hiện tượng đó xuyên qua rất nhiều lăng kính khác nhau, tương tự như một chiếc máy chụp hình ghi nhận quang cảnh bên ngoài xuyên qua ống kính của nó gồm nhiều lăng kính ghép lại với nhau.

            Một trong các lăng kính ấy của tâm thức - và cũng có thể là quan trọng nhất - là lăng kính biểu trưng cho tổng thể nghiệp quá khứ của mình, sau đó là các lăng kính khác như giáo dục, các kinh nghiệm cảm nhận trong cuộc sống của mình, và sau hết là các lăng kính phản ảnh xung năng và xu hướng của các thứ bản năng. Hành động "nhìn" xuyên qua các lăng kính trên đây có thể mang lại cho mỗi cá thể nhiều sự hiểu biết khác nhau.

            Chẳng hạn như trong một cửa hàng ăn, người hầu bàn mang ra cho mình một đĩa thức ăn nóng hổi, khói và mùi thơm bốc lên, rau và thịt rất hấp dẫn, mình vớ ngay đôi đũa để gắp. Mùi thơm, các miếng rau vừa chín tới, các miếng thịt nhiều nạc cắt dầy, nước sốt thật sánh, v.v.... là những "sự hiểu biết thông thường" mang tính cách tự động và theo thói quen. Thức ăn ngon, mang lại thích thú, vừa miệng, sự bổ dưỡng...nói lên một sự "thỏa mãn" hay "sung sướng" nào đó là "sự hiểu biết phát sinh từ sự suy nghĩ".

            Thế nhưng tâm lý học Phật giáo còn nêu lên một thể loại hiểu biết nữa gọi là "trí tuệ", vậy trước đĩa thức ăn, chúng ta sẽ trông thấy và đạt được một sự hiểu biết như thế nào qua lăng kính của trí tuệ?  Trên nguyên tắc sự hiểu biết đó cũng không phải là khó để đạt được nó, thế nhưng các "sự hiểu biết thông thường" và "phát sinh từ sự suy nghĩ" chi phối bởi vô minh và bản năng, thường che khuất nó khiến chúng ta khó nhận biết được nó. Mùi thơm, khẩu vị và sự thỏa mãn của bản năng, che khuất máu mủ trong miếng thịt và hình ảnh của một lưỡi dao sắc cắt ngang từng thớ thịt của miếng thịt ấy, khiến chúng ta không trông thấy được sự khổ đau của một chúng sinh đang phơi bày trong đĩa thức ăn trước mặt mình. Nếu điều chỉnh ống kính trong tâm thức đúng đắn và ý thức thì chúng ta sẽ quán thấy được sự thật đó. Khi nào "sự hiểu biết của trí tuệ" hiện lên với mình thật minh bạch, thì hai thứ "hiểu biết thông thường" và "mang lại từ sự suy nghĩ" sẽ không còn che khuất hay đánh lừa được nó nữa.

            Trên đây là những gì mà Bà Upasika Kee Nanayon muốn nêu lên về các cách hiểu biết khác nhau trong bài thuyết giảng của Bà. Ngoải ra Bà cũng còn cho biết thêm là không cần phải biết thật nhiều mà chỉ cần biết thật ít cũng đủ để mang lại cho chúng ta những hiểu biết thâm sâu, hoàn hảo và hữu ích. Vậy câu này có nghĩa là gì?

            Ống kính của máy chụp hình gồm nhiều lăng kính kết hợp với nhau thành từng nhóm với các khoen điều chỉnh giúp chúng ta có thể chụp các quang cảnh thật rộng, thật xa hay thật gần, hặc chụp từng chi tiết thật nhỏ, chẳng hạn như một cánh hoa bé xíu, một con sâu, v.v. Tâm thức với khả năng chú tâm của nó cũng vậy, có thể giúp chúng ta tập trung vào một chi tiết, hay một khía cạnh nào đó của thế giới hiện tượng, chẳng hạn như hướng vào sự khổ đau của một chúng sinh qua một miếng thịt trong một đĩa thức ăn. Với mục đích làm sáng tỏ hơn sự kiện trên đây, chúng ta có thể nêu lên thêm một thí dụ khác mang tính cách mở rộng hơn.

            Chẳng hạn như khi thoáng thấy bóng dáng của một đứa bé trên hè phố, thì tự động tâm thức mình điều chỉnh "ống kính" bên trong nó hướng vào đứa bé giúp mình trông thấy đứa bé rõ ràng hơn. Thế nhưng "ống kính" trong tâm thức của mỗi cá thể đều khác nhau, do đó sự hiểu biết xuyên qua các ống kính ấy cũng sẽ viết lên các dòng chữ với ý nghĩa khác nhau trên dòng tri thức của mỗi cá thể. Thí dụ một người phụ nữ có thể nhìn thấy áo của đứa bé rách ở vai và tự hỏi sao mẹ nó không vá cho nó, tóc nó bẩn và bù xù, sao mẹ nó không gội và chải tóc cho nó. Một người khác đi ngang trông thấy đứa bé và sờ vào túi quần xem ví tiền của mình còn hay mất. Một người khác nữa trông thấy đôi mắt của nó cũng sáng sủa, miệng bé xíu và đôi gò má xinh xinh, và nghĩ rằng có thể dụ dỗ nó và tim cách giao du tính dục với nó, v.v.

            Thế nhưng chúng ta cũng có thể nhìn thấy đứa bé như là một chúng sinh đáng thương, các thứ bệnh tật, già nua và cái chết đang chờ đợi nó. Sự hiểu biết đó tuy đơn giản thế nhưng nếu được phát huy một cách thật sâu sắc trong tâm thức mình thì nó cũng có thể viết lên những dòng chữ thật đậm nét trong lòng mình, khiến mình bước vào một cửa hiệu mua cho nó một chiếc kẹo hay một cái bánh, và không nghĩ rằng nó sẽ móc túi mình, hay là mình sẽ dụ dỗ và hãm hiếp nó.

            Những gì trên đây cho thấy trước một đối tượng duy nhất, cũng có thể có nhiều cách hiểu biết khác nhau, và cũng chỉ cần một sự hiểu biết "hướng vào một thứ duy nhất" - sự khổ đau của một chúng sinh chẳng hạn - cũng đủ mang lại cho mình một sự quán thấy thật bao la, mở rộng con tim và cả trí tuệ của mình, giúp mình vượt lên trên tất cả những sự hiểu biết khác.  

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 16.03.16

                                                                                     Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2018(Xem: 8797)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, còn gọi là Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, có khi còn gọi là Đức Phật Quan Âm, được Phật tử nhiều quốc gia Châu Á thờ phượng vì hạnh nguyện hóa hiện nhiều thân tướng để cứu độ chúng sanh. Riêng đối với Nhật Bản, nơi nhiều tông phái Tịnh Độ thịnh hành, hình tượng Đức Quan Âm hiện diện trong rất nhiều chùa, trong các tuyến hành hương, và trong văn học. Bạn chỉ cần đi vào bất kỳ ngôi chùa nào tại Nhật Bản, nhiều phần là bạn sẽ gặp tượng Đức Quan Âm, hoặc là nghìn tay nghìn mắt gọi là Senju Kannon (Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Âm), hoặc là một hóa thân của ngài là tượng Đức Chuẩn Đề 18 tay, nhưng thường gặp nhất là tượng Quan Âm Nam Hải trong bộ áo trắng. Chúng ta có thể đọc trong thơ của Basho (1644-1694) hình ảnh nhà thơ đứng nơi gác chuông Chùa Kannon (Quan Âm Tự) nhìn xuống núi, thấy mái ngói chùa trôi nổi trong các chùm mây hoa anh đào: Mái ngói Chùa Quan Âm trôi dạt xa trong mây của các chùm hoa anh đào.
27/07/2018(Xem: 6902)
Chúng tôi được Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ tịch công ty sách Thái Hà thông báo về khóa tu tại chùa Cự Linh, tỉnh Hải Dương Thầy là khách mời của khóa tu trong buổi sáng và buổi chiều sẽ hướng dẫn thiền. Khóa tu có đến 600 bạn trẻ mà chủ yếu là học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tôi là một trong số các bạn may mắn nhất của CLB yêu sách Thái Hà được đi cùng thầy Hùng. Thầy Hùng lái xe đưa chúng tôi đến một chương trình quá đặc biệt làm tôi vô cùng ấn tượng. “Khóa tu mùa hè.” Tại sao lại là mùa hè nhỉ? Câu hỏi này luôn vấn vương trong đầu tôi. Tại sao bây giờ ở rất nhiều chùa, các quý thầy, quý sư cô đều tổ chức khóa tu cho các bạn học sinh, sinh viên nhỉ? Tôi được biết, riêng thầy Hùng đã có hơn chục khóa tu mùa hè mời đến chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của mình và hướng dẫn thiền cho các bạn tu sinh rồi. Tôi giật mình nghĩ rằng mùa hè là mùa có nhiều ánh sáng mặt trời nhất, là mùa mà bắt đầu có nhiều loại cây bắt đầu kết trái, bởi thế nó mang lại nhiều năng lượn
27/07/2018(Xem: 10248)
Người không hiểu đặt câu hỏi “Tại sao cá đã bắt lên rồi lại đem thả, như thế có giả tạo không?; “Sao không đem tiền cho người nghèo mà đi cứu mấy con cá?” Chúng tôi xin phép được giải thích rõ hơn cho hành động Phóng Sinh: Cũng có những người thiếu hiểu biết và rất tiêu cực còn chê người là ngu vì họ nghĩ nên dùng tiền mua cá để đem cho nhà mồ côi, viện dưỡng lão, trại phong cùi hay người nghèo Phi Châu thì thực tế hơn v.v. Ngư phủ đi bắt cá lên bờ để bán cho người mua về giết rồi ăn thịt chúng. Nhưng thực tế có bán và ăn hết những thuỷ sản bị bắt lên bờ không, hay là sẽ còn thừa bị chết vì bắt lên nhiều quá làm cho một phần thặng dư chúng sanh sống trong nước bị chết uổng phí và chẳng được đóng góp thân thể của chúng để nuôi cho loài người được sống hạnh phúc; Hay chúng bị thúi rữa rồi đem bỏ?
26/07/2018(Xem: 7508)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình. Nhưng sợ hãi có mặt tích cực của nó trong vấn đề tu tập hành trì đạo pháp mà không phải ai cũng biết, sợ hãi là nếp tốt là đạo hạnh của sự lương thiện trong tâm hồn cao thượng. Vậy sự sợ hãi trong tu tập hành đạo như thế nào?
26/07/2018(Xem: 8373)
TUỆ TRÍ CỔ XƯA VÀ TƯ TƯỞNG HIỆN ĐẠI Nguyên tác: Ancient Wisdom and Modern Thought Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma, Mumbai 2011 Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi thật sự cảm thấy vinh dự lớn để nói chuyện với quý vị. Đặc biệt tại trường đại học, vì đây là trường Đại học Bombay rất nổi tiếng. Tôi luôn cảm thấy vui mừng khi gặp gở với các sinh viên. Tôi tin rằng thế hệ trẻ hơn – những người tuổi dưới 30 hay là 20 – là thế hệ thật sự của thế kỷ này, thế hệ có thể tạo nên một tình trạng mới cho thế giới này một lần nữa.
26/07/2018(Xem: 5881)
5h sáng. Sớm tinh mơ. Tôi đã thức dậy, mở toang hết cửa cổng để đón tất cả nhân duyên của ngày mới còn đang lãng vãng lân la bên ngoài vào nhà. Khu vực ngoại thành này, tầm 8h -9h vẫn còn yên tĩnh, còn nghe được tiếng chim ca, tiếng gà cục tác, huống hồ chỉ mới vào thời khắc đón ánh bình minh dịu dàng từ hướng Đông... Gian phòng thờ đã lên đèn. Ánh hào quang sau thánh tượng đức Phật rọi soi ấm áp huyền diệu. Hoa đăng, hương trầm, bánh trái đã thiết bày trên các bàn thờ theo đúng nghi lễ được Thầy hướng dẫn, căn dặn... Thầy đến trước giờ hẹn nửa giờ đồng hồ, mới 7h30, triệu thỉnh thêm thánh tượng đức Địa Tạng Vương Bồ Tát từ chùa Tịnh Quang mà Thầy trú trì, để thiết trên bàn đặt giữa chính môn. Nửa giờ sau, thêm một thầy nữa quang lâm, thầy
24/07/2018(Xem: 6541)
Sinh ra ở cõi đời này, dù được sống trong vui vẻ hạnh phúc nhiều như thế nào đi nữa, thì cũng sẽ có lúc chúng ta cảm thấy cuộc sống thật là vô vị, bởi những chuyện không vừa ý cứ dồn vập đổ tới khiến chúng ta vô cùng chán nãn. Những lúc như thế chúng ta thường hay oán Trời trách đất, hay oán hận những người xung quanh đã gây bao nhiêu điều phiền muộn đau khổ cho chúng ta. Chúng ta trách tại sao trước mắt chúng ta có những người quá hạnh phúc, không phải lo toan điều gì, mới sanh ra đời đã được ở trong cảnh giàu sang nhung lụa, lớn lên lập gia đình cũng được sống trong cảnh sung sướng, lên xe xuống ngựa, kẻ hầu người hạ. Riêng chúng ta thì đầu tắt mặt tối, cực khổ vô cùng mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc.
22/07/2018(Xem: 8845)
Thái Lan: Các cầu thủ đội bóng Heo rừng sẽ xuất gia 12 cầu thủ đội bóng “Heo rừng” và huấn luyện viên của họ đã được cứu thoát sau khi bị mắc kẹt 18 ngày trong một hang động ở Thái Lan, có khả năng sẽ xuất gia hạn định để bày tỏ sự kính trọng đối với Saman Kunan, cựu Hải quân Thái SEAL đã hy sinh trong nhiệm vụ giải cứu đội bóng.
22/07/2018(Xem: 6999)
Người con Phật nghĩ gì về án tử hình? Đứng về phương diện cá nhân, rất minh bạch rằng không Phật tử nào ủng hộ án tử hình. Đứng về phương diện quốc gia, thực tế là rất nhiều quốc gia -- nơi Phật giáo gần như quốc giáo, như Thái Lan, Miến Điện, Sri Lanka… -- vẫn duy trì và thực hiện án tử hình. Tại Thái Lan, án tử hình dùng để trừng phạt cho 35 tội hình sự, trong đó có tội sát nhân và buôn ma túy. Miến Điện cũng thế. Điểm hay là ở chỗ, hai quốc gia này tuyên án tử hình, nhưng rất ít khi thi hành án tử. Các quốc gia có đông dân số Phật tử -- như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… -- vẫn áp dụng án tử hình, và thường xuyên thi hành án tử.
20/07/2018(Xem: 6436)
Xã hội tân tiến ngày nay, đã khiến cho con người không còn sống trong sự bình thản như ngày xưa, bởi vì nền văn minh kỹ thuật cơ khí, điện tử đã lôi cuốn người ta gia nhập và chạy đua với thời gian. Cái gì cũng phải nhanh, phải vội, cuộc sống bon chen, không ai chờ đợi ai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]