Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Tàn Mộng (thơ)

26/03/201614:53(Xem: 6114)
Người Tàn Mộng (thơ)
blank
Namo Sakya Muni Buddha
 
Vực thẳm
Một thời Thế Tôn trú tại Ràjagaha, trên núi Gìjjhakùta. Rồi Thế Tôn cho gọi các Tỷ khưu:
 
Này các Tỷ khưu, chúng ta hãy đi đến Patibhànakùta. 
Khi đến Patibhànakùta, một Tỷ khưu thấy vực thẳm liền bạch Thế Tôn:
 
Bạch Thế Tôn, thật là lớn, thật đáng sợ hãi, vực thẳm này! 
Không biết có vực thẳm nào khác lớn hơn và đáng sợ hãi hơn không?
 
Này các Tỷ khưu, có vực thẳm khác lớn hơn và đáng sợ hãi hơn vực thẳm này. 
Đó là các Samôn nào không biết rõ như thật: đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là khổ diệt và 
đây là con đường đưa đến khổ diệt. Họ hoan hỷ với các hành đưa đến sinh, họ hoan hỷ với các hành đưa đến già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Vì hoan hỷ với các hành nên tạo dựng các hành đưa đến sinh, già…ưu, não. Vì tạo dựng các hành đưa đến sinh, già…ưu, não nên bị rơi vào vực thẳm của sinh, họ rơi vào vực thẳm của già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu và não. Ta nói rằng, họ không liễu thoát khỏi đau khổ.
 
Do vậy, này các Tỷ khưu, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, 
đây là khổ diệt và đây là con đường đưa đến khổ diệt.
(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ V, chương 12, phẩm vực thẳm, phần vực thẳm, VNCPHVN, NXB Tôn giáo 2002, tr651).
 
Suy Nghiệm: 
Trong tự nhiên, sâu nhất có lẽ là những vực thẳm trong lòng đại dương. Đối với con người, 
vực thẳm khó dò là tấm lòng ngổn ngang bao suy tư, toan tính. Dù sâu đến mấy, vực thẳm của đại dương
 vẫn đo được. Nhưng lòng người thì khó lường bởi tận trong bản chất vốn dĩ thậm thâm, thường bất chợt đổi thay trong từng sát na của các thái cực buồn vui, thương ghét, hạnh phúc và khổ đau, cao thượng và đớn hèn...
 
Đứng trước vực thẳm của tự nhiên, con người thường có cảm giác sợ hãi. Đối diện với vực thẳm của 
lòng người, ta cảm thấy ghê tởm và kinh khiếp. Nhưng trớ trêu thay, ít ai thấu hiểu và cảm nhận hết cái
 đốn mạt, dối trá và nguy hiểm của vực thẳm lòng mình. Trong tấm bi hài kịch cuộc đời, những chiếc mặt nạ được liên tục được mang vào rồi lại cởi ra, riết rồi tự thân của những diễn viên ấy không xác định được đâu là mặt thật của chính mình. Những chiếc mặt nạ ấy là bọt bèo sôi lên từ vực thẳm của tâm thức, là mắt nổi 
của vọng tưởng vốn gian trá, xảo quyệt và muôn thuở dối lừa.
 
Trong đạo lộ giải thoát, một vực thẳm sâu hơn, nguy hiểm hơn bất kỳ vực thẳm tuyệt mù nào là vô minh, 
không nhận ra chân lý mà biểu trưng là Tứ Thánh Đế. Theo tuệ giác của Thế Tôn, không nhận chân được 
bốn sự thật mới là vực thẳm lớn nhất và nguy hiểm nhất. Chấp nhận sinh tử và ưu não một cách tự nguyện
 và thích thú, thậm chí xem đó là cứu cánh của một đời người, một căn bệnh nan y của chúng sinh có tiền 
sử vô minh, gần như hết phương cứu chữa.
 
Muốn vượt ra khỏi hố thẳm của cuộc đời và của chính tự thân, những người con Phật phải quay về 
tự tâm, nhìn thẳng vào cuộc đời và chính mình. Để rồi từ đó, cảm nhận được những sự thật về con người 
và thế giới, thấy được nguy hiểm của vực thẳm vọng tâm để xa lìa đồng thời thể nhập, an trú chơn tâm 
mà cụ thể là giác ngộ Bốn sự thật cao thượng.
blank

Người Tàn Mộng
Khi nằm mộng ai biết mình đang mộng
Tỉnh giấc rồi mới biết đã từng mơ?.
Người tu Đạo, hỏi bao giờ hết mộng
Thưa, là khi Khai ngộ, thoát mê mờ.
 
- Này hành giả, con đường nào khai ngộ
Cuốn kinh nào mở ngỏ chốn Vô sanh?
Rừng Phật Pháp.. nơi nao bày quang lộ
Chữ nghĩa đầy.. con kiến mãi bò quanh.
 
- Khi học Phật nên vén màn ngôn ngữ!
Đạt ý rồi ngay đó hãy vong ngôn.. (*)
Giới, Định, Tuệ ba khóa vàng nên giữ
Chánh Niệm trên Thân, Ngữ với Tâm hồn..
 
Có đôi lúc mãi lo tìm chìa khóa
Trong túi chìa vẫn đó lại không hay!
Hãy ngồi xuống Lặng Yên và Nhận Biết
Mặt trời hằng sau lớp lớp mây bay..
 
- Lúc thất vọng, hồn chìm trong quá khứ
Khi âu lo là sống ở tương lai .
An trú Xả, Tuệ tri cùng thực tại
Mộng mê đời.. thôi dứt kể từ đây!


Như Nhiên Th Tanh Tue
(*)  Y nghĩa bất y ngữ .
blank
blank   
   have a great day photo: Have a Great  Day Haveagreatdaysw.gif            
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/12/2012(Xem: 7296)
Người đời ai cũng muốn tìm cầu hạnh phúc, nên chạy đuổi theo tiền của, sắc đẹp, danh vọng, quyền thế, ăn uống và ngủ nghỉ… Họ lầm tưởng rằng sẽ được vui sướng lâu dài, nhưng cuối cùng vẫn phải gánh chịu nhiều đau khổ!
23/12/2012(Xem: 5146)
Chử Đồng Tử là người Phật tử Việt Nam đầu tiên. Ông sống cùng cha là Chử Cù Vân tại Hưng Yên trong thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch. Một hôm, nhà cháy, chỉ còn chiếc khố hai cha con thay nhau mặc. Khi rời nhà, Chử Đồng Tử mặc khố và cha phải ở nhà, và ngược lại
19/12/2012(Xem: 9427)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôn và các loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
10/12/2012(Xem: 8588)
Nhạc phẩm “Để gió cuốn đi” của Trịnh Công Sơn không phải từ đầu đến cuối đều có chất “Đạo nhập thế” được lồng ghép trong nhạc. Có câu, có đoạn, ý tưởng triết lý đạo Phật hiện rõ.
08/12/2012(Xem: 4501)
Bài này sẽ tập trung nói về đề tài, một vài cách tiếp cận các nguồn nghiên cứu Phật học Anh ngữ. Và qua đây, thử khảo sát một vài thắc mắc thường gặp. Đặc biệt, chúng ta sẽ dò tìm dấu tích Kinh Kim Cương, một kinh căn bản của Tổ Sư Thiền, trong Tạng Pali.
06/12/2012(Xem: 6472)
Do sức ép của công việc, sức ép của mọi thứ trong xã hội đã làm thay đổi cấu trúc đời sống sinh hoạt gia đình truyền thống mà các sắc dân ở các nơi đã phải đối diện.
04/12/2012(Xem: 5192)
Một hôm, một Thiền sư phải qua sông. Sư bước lên một chiếc đò của một cô lái đò xinh đẹp. Sau khi thuyền cặp bến, cô lái thu tiền từng ngườì như bình thường, chỉ trừ nhà sư bị cô lái đò đòi tiền gấp đôi.
02/12/2012(Xem: 4495)
Sáu ba-la-mật là Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh gồm có hai sự tích tập: tích tập phước đức là làm lợi lạc cho người khác và tích tập trí huệ là xóa tan bóng tối vô minh để đi đến sự sáng tỏ hoàn toàn của tâm thức.
01/12/2012(Xem: 5917)
Lời giới thiệu — Đây là một trong bốn tiểu luận của Tỳ kheo Bodhi trong cuốn “Facing the Future” viết năm 2000 tại Tích Lan. Tỳ kheo Bodhi, thế danh là Jeffrey Block, người Hoa Kỳ, sinh năm1944. Đại sư đã đến với Phật giáo năm 1965, khi lần đầu tiên gặp Hòa thượng Thích Minh Châu tại khuôn viên trường Đại học Madison, tiểu bang Wisconsin, trước khi đến học cao học tại Claremont, California. Đại sư đã thuật lại cuộc gặp gỡ này trong bài viết “LẦN ĐẦU TIÊN TÔI GẶP MỘT NHÀ SƯ“→ đã được đăng tải trong Vườn Đào.
27/11/2012(Xem: 6202)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại khu vườn ông Anàthapindika dạy các Tỷ kheo: - Này các Tỷ-kheo, có hai hội chúng này. Thế nào là hai? Hội chúng không phải Thánh và hội chúng bậc Thánh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567