Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình

16/03/201619:51(Xem: 10179)
Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình
 
Hãy đọc các dòng chữ trong
tâm thức mình
Reading the Mind / Savoir lire notre esprit
 
Upasika Kee Nanayon
Hoang Phong chuyển ngữ
 
 Upisaka-Kee-2
Upasika Kee Nanayon (1901-1978)
 
Lời giới thiệu của người dịch
 
            Dưới đây là bài chuyển ngữ thứ 8, kết thúc loạt bài "Phật giáo và người Phụ nữ":
 
Bài 1: Phật giáo và người phụ nữ: một sự nghịch lý hay mâu thuẫn (Philippe Cornu)
Bài 2: Phụ nữ và nữ tính trong Phật giáo (Dominique Trotignon)
Bài 3: Con đường của sự quyết tâm (Ilan Dubosc)
Bài 4: Tenzin Palmo: Một nữ du-già nơi xứ tuyết (Dominique Dutet)
Bài 5: Phụ nữ và Phật giáo (Gabriela Frey) 
Bài 6: Làm mẹ với tấm lòng của Phật (Jaqueline Kramer- Sanitsuda Ekachai)
Bài 7: Người nữ tu sĩ Phật giáo trong thế giới ngày nay (Ven. Karma Lekshe Tsomo)
Bài 8: Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình (Upasika Kee Nanayon)
 
            Nếu các bài từ 1 đến 7 nêu lên các vấn đề bao quát phản ảnh các góc nhìn khác nhau của nhiều tác giả, thì trong bài thứ 8 chúng ta sẽ tìm hiểu về một phụ nữ trong thời cận đại, tự tu tập và đã đạt được giác ngộ, đó là bà Upasika Kee Nanayon của Thái Lan. Một quyển sách gồm 9 bài giảng ngắn nhưng thật sâu sắc của bà sẽ lần lượt được chuyển ngữ, nhằm nói lên sự thành đạt của bà, và cũng là cách giúp chúng ta tìm hiểu và đi sâu vào việc tu tập Phật giáo một cách cụ thể và trực tiếp hơn. 
 
             Qua các thời kỳ thật xa xưa, kể cả thời đại khi Đức Phật còn tại thế, nhiều phụ nữ cũng đã đạt được chánh quả và trở thành arhat/A-la-hán (kinh Therigatha/Tăng lão ni kệ). Tuy nhiên, qua dòng lịch sử lâu dài của Phật giáo người nữ tu sĩ luôn bị thiệt thòi, không mấy khi có dịp, hoặc tạo được các điều kiện thuận lợi hầu giúp mình lưu lại kinh nghiệm và các sự thành đạt của mình. Họ chỉ là những người tu tập trong âm thầm để rồi chìm vào quên lãng, không mấy ai biết đến!    
 
            Ngày nay trong thế giới Tây Phương, nơi mà Phật giáo vừa đặt chân vào chưa đầy một thế kỷ, may mắn hơn người ta thấy đã xuất hiện nhiều phụ nữ đạt được nhiều thành quả, cụ thể là các nữ tu sĩ và các nữ cư sĩ đã được nhắc đến qua loạt bài trên đây. Vậy nếu nhìn trở lại Á Châu trong thời cận đại thì chúng ta có thể tìm thấy được những người phụ nữ thực hiện được các kết quả tu tập ở các cấp bậc thật cao hay không? 
 
            Nói chung trong các xã hội Á Châu thật hết sức khó cho người phụ nữ tiến xa trên đường tu tập, và dù có thực hiện được một vài thành quả thì cũng hết sức khó để họ có thể nói lên cho mọi người biết, trước sự độc chiếm của các tu sĩ nam giới trong mọi lãnh vực sinh hoạt, nơi chùa chiền cũng như bên ngoài xã hội. Thế nhưng nếu nhìn gần hơn vào các nước thấm nhuần Phật giáo ở châu Á, thì tất chúng ta cũng sẽ thấy được những người phụ nữ thật khác thường. Điển hình là bà Upasika Kee Nanayon, một phụ nữ được giới tu hành và mọi người dân Thái kính phục và xem bà là một trong số các thiền sư lỗi lạc nhất trên quê hương họ trong thế kỷ XX. Các bài giảng của bà được ghi chép hoặc thu băng và lưu lại cho đến ngày nay, không những đã khiến các nhà sư uyên bác và giới Phật tử Thái Lan phải thán phục mà nhiều người trên thế giới cũng đã bắt đầu biết đến qua các bài giảng của bà đã được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương.
 
            Bà Upasika Kee Nanayon còn có một tên gọi khác mang tính cách tôn vinh hơn là
Ajahn Kor Khao Suan Luang (vị Thầy của khu đồi Khao Suan Luang) mà người ta thường dùng để gọi bà, thế nhưng suốt đời bà chỉ xem mình là một nữ cư sĩ: upasika, Hán dịch là ưu-bà-di. Bà sinh năm 1901 trong một gia đình buôn bán lẻ người Hoa tại tỉnh Rajchaburi, cách thủ đô Bangkok khoảng 150km về phía tây. Bà là con gái đầu lòng và là chị của bốn em nhỏ, và nếu kể luôn các đứa con của người vợ thứ của cha mình thì bà là chị cả của bẩy đứa em. Mẹ bà là một phụ nữ rất sùng kính Phật giáo, giữ giới thật nghiêm túc, mỗi tối đều tụng kinh, và ngay từ thuở ấu thơ bà đã từng được nghe mẹ giảng một vài khái niệm Phật giáo căn bản. 
 
             Sau này bà kể lại rằng lúc lên sáu, lần đầu tiên bà trông thấy mẹ mang thai và các cơn đau của mẹ trong lúc sinh, và cũng là lần đầu tiên bà trông thấy một hài nhi mới sinh ra đời, đỏ hỏn, tóc đen nhánh, khiến bà khiếp sợ vô cùng. Bà bỏ trốn sang các nhà hàng xóm suốt ba ngày liền. Sự sợ hãi ấy luôn ám ảnh bà cho đến khi cha mẹ bà ly dị. Sự sợ hãi trước kia cộng thêm với sự kinh hoàng đó đã khiến bà quyết định sẽ không lập gia đình và chỉ muốn được trở thành một người tu tập Phật giáo, dù lúc ấy bà chỉ là một đứa bé gái ngây thơ. Trong các buổi thuyết giảng sau này bà vẫn thường khuyên người nghe không nên tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống mà phải nhìn thẳng vào hiện thực để tìm lấy sự giải thoát cho mình. Tư tưởng của bà luôn đi sát với Giáo Huấn căn bản của Đức Phật là Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế).
 
            Thời tuổi trẻ, từ khi còn vị thành niên, bà đã phải giúp cha trông coi cửa hàng tạp hóa của gia đình, thế nhưng mỗi khi có chút thì giờ thì bà vùi đầu vào các kinh sách nói về Dhamma (Đạo Pháp) và tự luyện tập thiền định. Thỉnh thoảng bà cũng đi lễ Phật và ngồi thiền tại một ngôi chùa nhỏ gần nhà. Bà rất ngưỡng một vị thầy tu tập theo truyền thống tu trong rừng, rất nổi tiếng thời bấy giờ là Bhikkhu Buddhadasa. Vị này trụ trì một ngôi chùa ở tận miền nam nước Thái, và hai lần bà đã tìm gặp nhà sư này và lưu lại vài ngày trong ngôi chùa của vị sư này. Tuy tự luyện tập thiền định một mình nhưng bà thăng tiến rất nhanh, và sau đó đã dạy lại cho cha mình và đã giúp cha mình tìm được sự thanh thản và sáng suốt trong những năm cuối đời. Sau khi cha mất, bà tiếp tục quản lý cửa hàng, cố dành dụm một ít tiền hầu sau này tìm một nơi ẩn tu để tiếp tục quãng đời còn lại.
            Năm 1945, khi Thế Chiến thứ II vừa chấm dứt, lúc đó đã 44 tuổi, bà bèn giao cửa hàng cho người em gái và đến tá túc với vợ chồng người dì rất sùng kính Phật giáo. Nhà họ ở dưới chân một ngọn đồi cây cối um tùm và xanh mát. Cả ba tu bổ lại một ngôi chùa hoang phế gần đó để làm nơi tu tập. Lúc đầu thỉnh thoảng cũng có vài bạn bè và thân quyến đến thăm, trong các dịp này họ cũng rất thích thú được nghe bà Upasika Kee kể chuyện về Dhamma (Đạo Pháp). Cứ thế tiếng đồn về những lời giảng sâu sắc nhưng dễ hiểu của bà ngày càng vang xa, số người kéo nhau đến viếng ngày càng đông mà hầu hết là phụ nữ. Thế rồi một số lưu lại chùa và xin làm đệ tử của bà, "tăng đoàn" nữ giới do bà thành lập ngày càng đông. Riêng bà thì ngày càng yếu dần, trong những năm cuối cùng trước khi mất bà bị mù lòa vì tinh thể mắt bị đục (cataract), thế nhưng bà vẫn tiếp tục ngồi thiền và thuyết giảng. Bà từ giã thế giới hiện tượng này thật an bình và thanh thản năm 1978. Ngày nay ngôi chùa nhỏ trước kia đã được xây dựng thêm và trở thành một trung tâm tu tập dành cho phụ nữ.
 
Anh chụp bà Jeanne Schut (áo trắng bên phải, một cư sĩ người Pháp tu tập theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Theravada đã hơn 30 năm) từ màn ảnh truyền hình trong một cuộc phỏng vấn bà về tiểu sử và giáo huấn của bà Upasika Kee Nanayon, do chương trình Phật giáo của đài truyền hình Pháp thực hiện (cuộc phỏng vấn được diễn ra trong hai ngày 01.12.2013 và  08.12.2013). Độc giả có thể xem hai buổi phát sóng này trên mạng:
 
                                https://www.youtube.com/watch?v=bbd7Dp_54VA
                                https://www.youtube.com/watch?v=cMFyQp7rDfo
            Dưới đây là phần chuyển ngữ một quyển sách nhỏ của bà, tựa tiếng Anh là "Reading the Mind" do nhà sư người Mỹ Thanissaro Bhikkhu dịch từ tiếng Thái (độc giả có thể xem bản dịch này trên trang mạng: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/kee/readmind.html). Quyển sách này cũng đã được một nữ cư sĩ người Pháp là Jeanne Schut dịch sang tiếng Pháp với tựa "Savoir lire notre Esprit" (độc giả có thể xem bản dịch này trên mạng: http://www.dhammadelaforet.org/sommaire/pdf/kee/savoir_lire_esprit.pdf). Bản chuyển ngữ tiếng Việt với tựa "Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình", được dựa vào cả hai bản Anh và Pháp ngữ trên đây.
 
            Toàn bộ quyển sách gồm chín bài giảng ngắn: 
 
                                Bài 1: Làm thế nào để phát huy sự nhận định
                                Bài 2: Các cách hiểu biết khác nhau
                                Bài 3: Con đường mang lại sự thăng bằng
                                Bài 4: Lợi ích của sự bình thản
                                Bài 5: Một khối nhựa đường
                                Bài 6: Sự sụp đổ của sự thật quy ước
                                Bài 7: Sự phức tạp của vô minh
                                Bài 8: Tánh Không là gì?
                                Bài 9: Mở rộng con tim
            Nói chung các bài giảng trong quyển Hãy đọc các dòng chữ trong tâm thức mình" nhằm mục đích giúp chúng ta tìm hiểu sự vận hành của tâm thức, hầu tinh khiết hóa và biến cải nó, và đấy cũng là cách làm hiện ra thể dạng nguyên sinh, vắng lặng, trong sáng và sâu sắc của chính nó, nói một cách khác là mang lại sự "Giác Ngộ" cho người tu tập.
 
            "Giác Ngộ" tiếng Pa-li và tiếng Phạn là Bodhi, nguyên nghĩa của nó là "trí thông minh", sự "hiểu biết hoàn hảo" hay sự "khám phá". Hán dịch là "Giác Ngộ", đôi khi cũng thấy dịch âm là "Bồ-đề". Giác là nhận thấy, Ngộ là hiểu rõ. Thiền Tông Nhật Bản (Zen) gọi thể dạng Bodhi/Giác Ngộ đó là Satori, nghĩa từ chương là sự "Thành Đạt", với ý nghĩa là "đạt được", "trực nhận được" hay "hiểu biết được" một cái gì đó một cách sâu sắc và đột ngột. Người Tây Phương dịch chữ Bodhi là Eveil hay Awakening có nghĩa là sự "Tỉnh Thức" hoặc đôi khi còn dịch là Illumination hay Enlightenment, sự "Bừng Tỉnh", tức có nghĩa là "cảm thấy sáng ra" khi hiểu được một cái gì đó.
 
            Thế nhưng ý nghĩa của thuật ngữ "Giác Ngộ" thường bị lạm dụng, và được hiểu lệch lạc, đôi khi được hình dung như là một hình thức "lý tưởng", một  "mục đích" cao siêu, thiêng liêng và mầu nhiệm, nói chung là một thứ gì đó không phải của mình, ở bên ngoài tâm thức mình. Hơn nữa Đại Thừa Phật giáo nói chung còn cho rằng việc đạt được "Giác Ngộ" phải cần đến một thời gian tu tập thật dài, phải trải qua vô lượng kiếp. Thế nhưng sự "Giác Ngộ" thì lại là một thứ gì đó ở ngay bên trong con người mình, trong tâm thức mình, một thứ "vốn liếng" riêng của mỗi cá thể và trong tầm tay của tất cả mọi người. "Thời gian vô tận" do Đại Thùa nêu lên chỉ là một cách nói, một "phương tiện thiện xảo" giúp người tu tập phát huy sự cố gắng và kiên nhẫn.
 
            Tóm lại tu tập Phật giáo là nhìn vào bên trong chính mình hầu khám phá ra sự "Giác Ngộ" trong tâm thức của chính mình, và mỗi con người đều có một tâm thức, chỉ khác nhau là cái tâm ấy có khỏe mạnh hay bệnh hoạn, u mê hay sáng suốt, vận hành có suôn sẻ hay không. Vậy chúng ta hãy theo dõi những lời chỉ dẫn của bà Upasika Kee Nanayon trong bài giảng ngắn dưới đây, hầu giúp chúng ta đọc được - hay ít ra cũng đánh vần được - sự u-mê và lầm lẫn và cả sự "Giác Ngộ" bên trong tâm thức mình:
 
 
Hãy đọc các dòng chữ trong
tâm thức mình
 
Upasika Kee Nanayon
           
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2015(Xem: 8079)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12059)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 30976)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 12918)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12199)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7210)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
21/06/2015(Xem: 9508)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
20/06/2015(Xem: 14544)
Bài thơ đầu anh viết tặng em Là bài thơ anh kể về đôi dép Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết Những vật tầm thường cũng biến thành thơ
18/06/2015(Xem: 6438)
Hãy Lắng Tâm Cảm Nhận Này bạn, bạn đi đâu đấy, đứng lại đây với tôi một phút, chỉ một phút thôi!!! Bạn hãy cùng tôi quan sát những người đi đường kia xem. Bạn có thấy là họ đang hối hả lao về phía trước không? Đang ở trong nhà thì họ lao ra đường, đang ở đường thì họ vội vã phóng về nhà. Nhìn họ chẳng có chút bình an nào cả, khuôn mặt ai cũng căng như dây đàn. Họ vội vã đi, vội vã làm, vội vã nói, vội vã ăn, ngay cả đi chơi cũng vội vã. Họ đã đánh mất đi khả năng sống thư thái, an nhàn. Họ không làm chủ được cuộc đời của mình, họ bị cuộc đời rượt đuổi. Nếu họ không biết dừng lại thì họ sẽ phải hối hả như vậy suốt cuộc đời. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, làm sao mà người ta có thể bình an hạnh phúc khi trong tâm lúc nào cũng đầy ắp những toan tính, lo âu và đôi chân thì cứ lao về phía trước (mà không biết lao về đâu)? Và bạn biết không, nếu có ai đó đứng bên kia đường nhìn về phía bạn thì thấy chính bạn cũng nằm trong cái đám đông hỗn l
18/06/2015(Xem: 6536)
Chúng tôi rời Việt Nam bay tới Băng Cốc Thái Lan và phải đi tiếp 300 km nữa mới về đến địa điểm nơi diễn ra khóa tu “Con đường hạnh phúc”. Đây là khóa tu dành riêng cho người Việt. Rời khỏi nhà buổi sáng, và đến 7 giờ tối mới đến nơi. Xong thủ tục check in, nhận phòng thì đã 22h đêm. Ai cũng mệt nhưng hạnh phúc. Bởi con đường hạnh phúc có thật đây rồi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]