Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ấm trà ngày cuối năm

07/02/201606:50(Xem: 6000)
Ấm trà ngày cuối năm

Ấm trà ngày cuối năm

 Am-tra-bat-trang

Ngày cuối cùng của năm tôi thường ngồi một mình. Người ta mê rượu, mê bia, tôi thích uống trà. Trà độc ẩm ngày cuối năm thú vị lắm. Ngồi một mình ngẫm về 1 năm trôi qua. Thời khắc chuyển giao này linh thiêng vô cùng. Ít nhất là đối với tôi.

Thường thì tôi ngồi uống trà trong phòng Phật. Phòng thờ Phật của tôi có một Vườn Phật, rất nhiều tượng Phật thỉnh về từ mọi miền khắp thế giới. Tôi có Vườn Phật bởi nghĩ rằng một vị Phật như Thích Ca Mâu Ni không đủ để giúp đỡ, để cứu tất cả chúng sinh trên thế gian này. Tôi có Vườn Phật mấy năm nay bởi 10 năm trước chúng tôi đã có Vườn Yêu Thương. Một vườn!

 

Thường là tôi ngồi im uống trà và đọc tụng lại bài kinh sám nguyện trước khi pha trà.

“Trang nghiêm đài sen ngự tọa
Đại hùng từ phụ Thích Ca
Đệ tử lắng lòng thanh tịnh
Bàn tay chắp thành liên hoa
Cung kính hướng về Điều ngự
Dâng lời sám nguyện thiết tha”.

 

Một năm trôi qua. Mình đã làm gì. Trong 365 ngày qua mình đã làm uổng phí bao nhiêu ngày. Suy cho cùng thì chỉ có việc thiện và việc bất thiện. Nếu không làm việc thiện thì có thể ta đã làm những việc bất thiện. Một năm tôi nhìn lại mình trước Phật, bên ly trà đượm chất xuân về. Lòng thanh tịnh, tâm thành kính thì những gì đúng nhất sẽ tự hiện về. Ta có thể nói dối hàng trăm, hàng vạn thậm chí hàng triệu người nhưng không thể nói dối chính mình, nhất là vào những giờ phút minh thiêng này.

Tôi có rất nhiều ấm trà. Những chiếc ấm tử sa thỉnh tận gốc, những chiếc ấm cổ uống nhiều năm nay, những chiếc ấm với bao kỷ niệm của những chuyến đi vẫn mang theo để thưởng thức, cả những chiếc ấm bình dị rẻ tiền nữa. Lắm lúc nghĩ lại: không khéo lại bám chấp vào những chiếc ấm này. Bị mê hoặc bởi ấm. Tu mà không khéo lại thêm dính mắc, thêm attachement.

Tôi có anh người quen thường xuyên khoe ấm trà. Mà anh ấy có nhiều loại ấm trà thật. Toàn ấm quý và hiếm thôi. Anh bảo vệ và giữ gìn ấm trà hình như còn hơn cả người thân. Còn tôi thì tưng tửng. Bởi ấm đâu có quan trọng đối với tôi.

Ông nội tôi dạy tôi từ nhỏ rằng “Nhất nước, nhì pha, tam trà, tứ ấm”. Ấm cũng chỉ được xếp hạng cuối cùng trong 4 yếu tố làm nên ấm trà ngon mà thôi. Tuy nhiên tôi cứ nghĩ về lời dạy của ông nội. Hình như pha, tức người pha phải lên số 1 chứ không thể xếp hàng 2 sau nước được. Ông nội tôi mất từ lâu nên không còn dịp hỏi ông. Không biết ông nội tôi nói sai ý cổ nhân hay tôi nghe nhầm, hay tôi không hiểu!

Các học trò và bạn bè khuyến khích tôi, thế là Thái Hà Books sản xuất ấm. Ấm pha trà làm tại làng gốm Bát Tràng bởi các nghệ nhân nơi đây. Bát Tràng vốn nổi danh về gốm cả trăm năm nay nên các nghệ nhân hợp tác với chúng tôi rất ăn ý. Ấm trà chúng tôi làm rất giản đơn, rất mộc mạc. Vậy mà mọi người đua nhau thỉnh. Thật là lạ.

Sớm mai ngày cuối năm tôi ngồi bên bình nước sôi và ấm rồi trà trong cái tâm nhẹ nhàng, thư thái, hết bận rộn. Người ta thì đang cuống cuồng lên, đang chạy đôn chạy đáo lo cho tết. Nào là dọn nhà, nào là mua sắm, nào là cúng lễ. Còn tôi thì ung dung và thanh tịnh bên ấm trà. Trà độc ẩm hay lắm, thú vị lắm đấy ạ.
am-tra-thuong-thuc-ngay-xuan

Tôi ngồi thư giãn pha trà. Trong lúc đợi trà tôi lại suy ngẫm

“Đệ tử phước duyên thiếu kém
Sống trong thất niệm lâu dài
Không được sớm gặp chánh pháp
Bao nhiêu phiền lụy đã gây
Bao nhiêu lỡ lầm vụng dại
Vô minh che lấp tháng ngày
Vườn tâm gieo hạt giống xấu
Tham, sân, tự ái dẫy đầy
Những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng
Gây nên từ trước đến nay
Những điều đã làm, đã nói
Thường gây đổ vỡ hàng ngày.
Bao nhiêu não phiền nghiệp chướng
Nguyện xin sám hối từ đây”.

Dù ở giữa thủ đô Hà Nội hay chốn đông đúc Sài Gòn tôi luôn tìm thấy sự thanh tịnh và yên ắng ở đây. Phòng Phật giản dị của tôi với kinh sách và trà. Tôi tự pha trà và tự thưởn cho mình ấm trà chào ngày mới. Đôi khi có bạn trà đến thưởng thức cùng. Thế là chúng tôi hòa vào nhau với trà, với khí xuân, với Phật và với vũ trụ.

Rồi tôi thưởng thức trà. Trà ngồi nhấm nháp, nhâm nhi. Ngon lắm. Giữa cái rét buốt xương của Hà Nội uống trà vào sáng sớm thì tuyệt vô cùng. Thật sự là vậy.

Bạn hỏi, làm sao có ấm trà ngon? Trà ngon là xuất phát không chỉ từ ấm, từ trà, từ nước mà từ tâm người pha. Nếu người pha có lòng bao dung, có tâm thanh tịnh, có yêu thương tràn dâng thì các trà hữu tha hồ được thưởng thức. Đảm bảo phê luôn.

Không hiểu sao trong lúc nhâm nhi trà tâm tôi hay nghĩ đến đoạn kinh sau

 ngoi-thien-hang-ngay

“Đệ tử thấy mình nông nổi
Con đường chánh niệm lãng xao
Chất chứa vô minh phiền não
Tạo nên bao nỗi hận sầu;
Có lúc tâm tư buồn chán
Mang đầy dằn vặt lo âu,
Vì không hiểu được kẻ khác
Cho nên hờn giận, oán cừu;
Lý luận xong rồi trách móc
Mỗi ngày mỗi chuốc khổ đau
Chia cách hố kia càng rộng
Có ngày không nói với nhau
Cũng không muốn nhìn thấy mặt
Gây nên nội kết dài lâu;
Nay con hướng về Tam Bảo
Ăn năn khẩn thiết cúi đầu”.

Tôi ngồi một mình tự mình ăn năn, hối lỗi. Thật tâm tôi ăn năn với các tội lỗi mình đã cố tình hay vô tình gây ra. Tôi thành tâm sám hối với các oan gia trái chủ của mình. Và ngay bây giờ, khi trời đã sáng, khi đã thướng thức trà xong rồi, ngồi gõ những dòng chữ này mà lòng vẫn cứ đang sám hối. Ôi tội lỗi nhiều quá. Ôi vô minh sâu dày quá.

Tu tập đúng chánh pháp là rất quan trọng. Từ lâu có những người, trong đó có tôi, không biết đến chánh pháp, không được thực hành đúng chánh pháp nên tu tập mà không có kết quả hoặc kết quả rất ít. Tôi lại chưa biết cách sám hối, chưa biết sửa mình nên càng tu càng như rùa mù bò giữa sa mạc.

Hiểu sai Phập Pháp làm ta tốn rất nhiều công sức và thời gian tu tập, nhưng xét lại chẳng thấy có lợi ích gì nhiều cho bản thân. Đó là còn may. Có khi càng tu càng xa rời Phật. Càng tu, cái bản ngã càng lớn hơn và ta lại càng cho bản thân xa lìa, xa dầnPhật Pháp. Vì tu sai, tu theo tà Pháp nên ta không thấy giải thoát mà ngày càng trói mình chặt hơn. Nay cần sám hối.

Ấm trà là dụng cụ để pha trà. Không có ấm, không có trà, không có nước, không có người pha thì không có trà để thưởng thức. Nhưng nếu ta quá quý cái ấm, quá trọng cái trà, quá cầu kỳ cái nước thì ta lại bám chấp rồi. Nếu lỗ mũi ta luôn phổng lên khi được khen ấm quý, trà ngon, pha tuyệt…. thì ta lại đang bay lên trời, đang xa lìa Phật thật rồi.


Đức Phật dạy “Pháp ta không có thời gian đến để mà thấy”. Chúng ta nên đọc, học, ngẫm và hiểu biết tính chất của các pháp thế gian là vô thường, khổ, vô ngã. Hiểu rồi ta thực hành hạnh buông xả. Buông xả các pháp. Khi buông ta có tất cả. tôi thường ngồi thưởng thức trà và ngắm chữ BUÔNG luôn hiện diện trước mặt.


Sự giác ngộ và giải thoát có phải là quá khó đến vậy. Phải chăng phải đợi kiếp sau hay nhiều kiếp sau nữa. Tôi thì tự thấy mình đang giác ngộ từng phần, đang giải thoát từng phần. Pha trà, thưởng thức trà cũng giúp ta giác ngộ và giải thoát mà. Giải thoát hình như đơn giản là sống tốt, sống có ích, sống thuận với vũ trụ. Giải thoát là sống để có tâm bất động, thanh thản, an lạc và vô sự.

Nếu ta bận tâm với việc đi khoe ấm quý, ấm đắt tiền, bận đi khoe trà ngon, trà hiếm thì thật là uổng. Tất cả chỉ là bọt xà phòng thôi mà. Vậy nên tôi hay đọc thầm và ngẫm về 4 câu kệ sau đây…

“Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!
Nắm giữ làm chi! Có ích gì!
Càng ôm, càng giữ, càng đau khổ,
Buông xuống đi, hãy buông xuống đi!”

Trà ngon không dành cho người tham lam. Nước ngọt không dành cho người ích kỷ, chơ những ai tâm đầy vẩn đục. Ta cứ bình tâm thưởng thức trà, mặc cho ai bận bịu những gì, tham lam những gì. Thưởng thức trà trong tĩnh lặng, trong thanh tịnh thật tuyệt. Để rồi từ hư không vọng xuống những câu thơ chẳng biết của tác giả nào…

“Giữa cõi bùn ô nhiễm

Vươn mọc đóa sen thơm,

Cái vươn mọc siêu thoát

Thơm ngát cả mười phương”.

 

Trước mặt tôi là những viên đá. Có cả trăm viên, đủ thể loại, hình dáng. Tôi rất thích sưu tầm đá. Nhất là sau khi đọc cuốn “Năng đoạn kim cương” năm 2.000 ở Sydney Australia. Đá là ông thầy quý của tôi, quý lắm. Nhờ đá mà tôi giác ngộ thêm nhiều chút đấy nhé. Và trong tai lại vang vảng lên tứ thơ. Không biết là tứ thơ hay 1 bài kệ. Không biết của ai, của tác giả nào…

 

“Tảng đá vững vàng kia

Gió nào lay động được
Tâm người trí cũng vậy

Trước miệng cười khen chê”.

 

Ngồi gõ những dòng này nhớ lại, sáng nay thưởng thức trà xong, tôi ra Đường Sách Nguyễn Văn Bình nằm ngay sát nhà thờ Đức Bà, quận 1 của Sài Gòn. Thế là có dịp lỳ xì sách nhânTết Sách lần thứ 9. Nhân dịp xuân về tôi rất thích lỳ xì, nhất là lỳ xì sách. Tự nhiên sáng nay có thầy giáo Thế từ Mang Thít tỉnh Vĩnh Long liên lạc đến. Lại  có 1 em sinh viên trước khi về Mang Thít lên thăm tôi. Thế là tôi lỳ xì 50 cuốn sách “Happy Books hạnh phúc mỗi ngày” cho thầy giáo Thế, cho em sinh viên chưa biết tên và những bạn đọc yêu quý ở Mang Thít. Chỉ mong sao các bạn ở Miền Tây hạnh phúc và có hạnh phúc mỗi ngày. Mong cho ai cũng an tĩnh, ai cũng tu với tâm không. Tự nhiên lại vang lên trong tâm những câu thơ… Hình như vang đến từ Hà Nội, nơi tôi đang vẫn sống mấy chục năm nay.

Một an tĩnh mênh mông

Với tâm niệm trú không

Chánh pháp nơi ấy hiện

Mùa đông ánh lửa hồng”.

 

Ấm trà ngày cuối năm đã hết vị trà. Ấm trà uống một mình đã không còn giọt nước. Tôi ngồi 1 mình trong phòng Phật. Trên tay tôi là mấy cuốn sách quý muốn đọc hôm nay “Giấc ngơ hóa rồng”, “Steve Job – Hành trình từ gã nhà giàu khinh suất đến nhà lãnh đạo kiệt xuất”, “Tứ thư lãnh đạo”, “Những người khổng lồ trong giới kinh doanh”, “Lên gác rút thang”. Nghề của tôi là quản trị và môn mà tôi đi giảng vẫn là quản trị, là lãnh đạo mà. Cái nghề của ông thầy giáo Nguyễn Mạnh Hùng tôi là thế. Nhưng làm gì thì làm, dạy gì thì dạy người tu tại gia cũng cần nghĩ đến giác ngộ và giải thoát trong mỗi việc làm. Vậy nên lại thêm những câu kệ hiện về trong não

 

“Dù làm bao nhiêu việc

Ích lợi cho bao người

Cũng đừng quên giải thoát

Là mục đích cuối cùng”

 

Trà đã hết, trầm thơm không còn, nắng đã chan hòa. Tôi ngồi yên và nghĩ rằng mình cần phải sống tốt cái đã. Trước hết phải sống tốt, sống thiện, sống có ích, sống với tâm thiện, với lời nói ái ngữ, với những hành động lành. Tự nhiên nhớ đến đoạn lời trong phim "Chuyện Tử Tế" của đạo diễn Trần Văn Thủy:

Từ rất xa xưa, cha bác có dạy: Tử tế vốn có trong mỗi người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bề bỉ đánh thức sự tử tế, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên hay trên lễ đài của quốc gia, bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người, người tử tế trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang, hoặc siêu phàm...

Uống trà ngày mới với chiếc ấm Bát Tràng giản đơn và suy ngẫm cho cùng, rằng ở trên đời này, không có một nghề nghiệp nào, không có một con người nào trở nên tử tế, không một ai có thể giác ngộ và giải thoát nếu nếu không bắt đầu từ tình yêu thương, nếu không có trí tuệ. Pha trà, thưởng thức trà, bên ấm trà cho ta nhiều lắm, nhiều lắm…

Có ai muốn có ấm trà Bát Tràng giản dị và mộc mạc của chúng tôi không. Có ai muốn uống những loại trà dung dị mà thấm tình người của chúng tôi không. Có ai muốn ngồi thưởng thức trà cùng tôi không. Hỏi rất thật nhân năm mới đấy ạ. Nếu không muốn thưởng thức trà thì xin mời quý vị đến để nhận sách lỳ xì nhân Tết Sách lần thứ 9. Tết này cũng như các tết trước chúng ta vẫn lỳ xì kinh sách, vẫn tặng những giỏ quà sách như truyền thống nhiều năm nay mà. Hãy đến nhé quý vị, nhé các bạn….

TS Nguyễn Mạnh Hùng – Người sáng lập và Chủ tịch Công ty sách Thái Hà

 xep-hang-tai-tphcmly-xi-sach-tre-on-doihungnm-ky-tang-sach

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5608)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4311)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9144)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5474)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5098)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5695)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6194)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5201)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]