Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

18/12/201509:11(Xem: 8465)
Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

 

Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.

I- Duyên khởi ngoại giới.

Sáng nay, ngồi uống trà trong sương sớm. Cầm chung trà nóng trong lòng bàn tay, nghe hơi ấm len nhẹ rồi lan toả cả toàn thân. Tôi thấy hơi và hương trà bốc lên rất mỏng, rất mảnh, rất tế, khó nhận biết. Nhưng mà tôi thấy biết rất rõ ràng cái khí, cái hương ấy. Rồi tôi chợt nghĩ: “Cái khí cái hương nhẹ, mỏng, tế vi ấy đang hiện hữu, đang cùng với tôi, cùng với vũ trụ đang là, đang mới mẻ, tinh khôi trong phút giây này. Tôi cảm ơn trời đất, nhật nguyệt, sum la vạn tượng... đã cùng hiện hữu, cùng có mặt với tôi trong dòng sống, trong sự sống muôn đời đang chảy trôi không gián đoạn, không đứt khúc! Ôi! Sự mầu nhiệm của thực tại đang là cùng chung với vạn hữu khi nhận thức của tôi có mặt!”

Tại sao tôi lại nói vậy? Những sát-na tôi cảm nhận hơi khí và hương trà là những sát-na vĩnh cửu, không lặp lại hai lần. Vả giả dụ không có hơi khí, hương trà sáng nay thì sẽ không có sơn hà đại địa, không có nhật nguyệt trăng sao, và không có cả quả đất, không có cả nhân loại 7 tỷ người!

Khi có hơi khí, hương trà và sự cảm nhận của tôi thì toàn bộ pháp giới đều có mặt. Có hơi khí, có hương trà thì nước pha trà, trà, chung trà có mặt. Nước là nước tại HKST qua công trình thợ thầy khoan giếng, xây bể chứa, những cái máy bơm nước; lửa đun trà lấy từ nguồn lưới điện quốc gia với công trình hạ thế đi qua mấy cây số đường rừng; trà thì ở cao nguyên Bắc Lạng có người trồng, thu hái, chế biến; chung trà bằng gốm đất nung thuộc một lò sản xuất, do một nhóm thợ thủ công nào đó. Đưa đôi mắt toàn cục ta thấy cả sự hiện hữu cả nhân, vật, thế gian, thế giới khi truy nguyên liên hệ thợ thầy, xuất xứ thiết bị, máy móc, thời gian, công phu, sự đóng góp không biết bao nhiêu nhân và duyên nữa trong suốt quá trình vận hành ấy. Vậy, có hơi khí, hương trà và tôi cảm nhận thì chúng đồng hiện hữu cả vạn pháp tương quan.

Trên bàn viết của tôi có một hạt bụi. Hạt bụi có mặt thế là vũ trụ hiện hữu. Tại sao vậy. Nếu hạt bụi không có thì ngôi nhà này không có, đất đá nơi ngọn núi này cũng không có. Thế là không có cả tỷ năm trước, đất đá này được phun trào từ một miệng núi lửa nào đó. Từ đây ta có công thức duyên khởi:

“Hạt bụi có thì vũ trụ có

Hạt bụi không thì vũ trụ không”.

Ta có thể chuyển rộng nghĩa sang Pāḷi công thức ấy:

“Rajasmiṃ sati sakalalokadhātu hoti

Rajass’ uppādā sakalalokadhātu uppajjati

Rajasmiṃ asati sakalalokadhātu na hoti

Rajassa nirodhā sakalalokadhātu nirujjhati”.

Raja (m) là bụi; sakala-lokadhātu (f) là vũ trụ nên ta có thể dịch:

“Khi hạt bụi hiện hữu, vũ trụ hiện hữu; do sự sinh khởi của hạt bụi, vũ trụ sinh khởi. Khi hạt bụi biến mất, vũ trụ biến mất; do sự biến mất của hạt bụi, vũ trụ biến mất”.

Vậy thì bất cứ cái gì xẩy ra, hiện hữu, tồn tại – nhìn thì tưởng như hỗn loạn nhưng chúng nằm trong một luật tắc vô cùng nghiêm minh và chặt chẽ, trong một tương quan tương duyên trùng trùng, tương tác, tương thành. Ai đã từng biết qua bài nói chuyện của Edward Norton Lorenz trước Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement of Science) có tựa đề Predictability: Does the Flap of a Butterfly's Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas? (Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?) thì sẽ hiểu sự trùng trùng duyên khởi tương tác của vạn hữu trong “hiệu ứng của cánh bướm” này! (Xem Wikipedia).

Tồn tại của vạn pháp là tồn tại tương quan, không có tương quan, tương duyên, tương sinh thì không có cái gì được gọi là tồn tại. Vậy có cái gì bị diệt mất không? Cũng không có cái gì bị diệt mất cả. Định luật bảo toàn năng lượng là một nguyên lý tổng quát cho tất cả các lý thuyết vật lý (cơ học, điện từ học, vật lý hạt nhân...). Theo đó, trong toàn vũ trụ tổng năng lượng không đổi, nó chỉ có thể chuyển từ hệ này sang hệ khác. Người ta không thể “tạo ra” năng lượng, người ta chỉ “chuyển dạng” năng lượng mà thôi. Năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác hay chuyền từ vật này sang vật khác (Xem Wikipedia).

Tất cả những duyên khởi này, duyên khởi ngoại giới, là cả vũ trụ, nhật nguyệt, sum la vạn tượng – chúng muôn đời vô thường, vô ngã; và vì là luật tắc tự nhiên của vạn hữu nên chúng không có khổ (dukkha).

II- Duyên khởi nội tâm.

Chính duyên khởi nội tâm này, do cảm giác, tri giác và nhận thức chủ quan chế biến, xen dự vào tiến trình sinh khởi nên có đầy đủ vô thường, vô ngã và dukkha.

Ta sẽ tuần tự khảo sát.

“ Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không!”

Hai câu thơ của thiền sư Đạo Hạnh mới nghe qua ai cũng tưởng là nó diễn đạt duyên khởi ngoại giới như chúng ta vừa bàn ở trên.

Phan Kế Bính dịch rất thơ:

“- Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không!

Đúng vậy chứ còn gì nữa. Nó y chang. Nhưng không, không phải vậy. Thiền sư Đạo Hạnh muốn nói đến lý duyên khởi nội tâm, nhưng do giới hạn của Việt dịch nên đã “biến trong thành ngoài” đó thôi!

Cụm từ quan trọng nhất là “tác hữu”; tác là tư tác (cetanā); vậy hai câu kệ ấy có nghĩa là: “Khởi niệm có thì hạt bụi, hạt cát li ti cũng có. Khởi niệm không thì cả thế gian này cũng không!”

Ta có thể chuyển ngữ nghĩa hai câu kệ ấy sang “công thức” Pāḷi:

“Khaṇasmiṃ sati loko hoti

Khaṇass’uppādā loko uppajjati

Khaṇasmiṃ asati loko na hoti

Khaṇassa nirodhā loko nirujjhati”.

Khaṇa (m) là sát-na hay một chập tư tưởng nên ta có thể dịch gần sát với nguyên văn:

“Khi một sát-na tư tưởng hiện hữu, thế giới hiện hữu; do sự sinh khởi của sát-na tư tưởng, thế giới sinh khởi. Khi sát-na tư tưởng biến mất, thế giới biến mất; do sự biến mất của sát-na tư tưởng, thế giới biến mất”.

Ý nghĩa của đoạn kệ này nó đúng ý cái câu mà những người cư sĩ thường nói qua cửa miệng: “Vạn pháp duy tâm tạo”. Nhưng khi nói “duy tâm tạo” thì có thể sinh hiểu lầm, phải nói đúng y như kinh Lời Vàng số 1, 2 mới được:

“Các pháp, tư tác dẫn đầu
Tư tác chủ ý bắc cầu đưa duyên
Nói, làm xấu ác, chẳng hiền
Bánh xe bò kéo, khổ liền theo sau”.
(Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā,
manasā ce paduṭṭhena
bhāsati vā karoti vā,
tato naṃ dukkhamanveti
cakkaṃ’vā vahato padaṃ).
“Các pháp, tư tác dẫn đầu
Tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên
Nói, làm lành tốt, thiện hiền
Như hình dọi bóng, vui liền theo sau”.
(Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā,
manasā ce pasannena
bhāsati vā karoti vā,
tato naṃ sukhamanveti
chāyā’va anapāyinī).

Theo Abhidhamma thì ý (mano), thức (viññāṇa), tâm (citta)... đồng nghĩa; nhưng tôi chọn dịch là tư tác (cetanā) vì tư tác mới là nghiệp. Từ trước đến nay, nhiều nơi bảo tác ý (manasikāra) là nghiệp; không phải vậy, tác ý mới chỉ là hướng tâm, như bánh lái của chiếc thuyền. Trong 7 biến hành tâm sở (Duy Thức chỉ 5): Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn – thì chính tư (tư tác-cetanā) mới quan trọng, mới tạo nghiệp; sau đó, các lộ trình tâm mới khởi theo – chúng đồng khởi. Tuy nhiên, nếu dịch là tâm hay ý đều không sai, vì ý, tâm, tư tác - được coi là tâm và các pháp (dhammā), hai từ đầu trong câu kệ, chính là những tâm sở (theo chú giải).

Trích dẫn dài dòng như vậy để đi đến cái gốc của vấn đề đó là khởi niệm, khởi tư tưởng; nếu khởi niệm, khởi tư tưởng tốt (tâm vô tham, vô sân, vô si) thì những tâm sở đi theo sẽ tốt, là những thiện tâm sở; nếu khởi niệm, khởi tư tưởng xấu (tâm có tham, sân, si) thì những tâm sở đi theo sẽ xấu, là những bất thiện tâm sở.

Từ cái bản căn ấy, trong đời sống thường nhật, chúng ta đôi khi có một khởi niệm, đi kèm một quyết định tâm để tạo cho mình một hướng đi, tạo một ngã rẽ mới có liên hệ với ba-la-mật – thì cái này mới thật là trùng trùng duyên khởi, ảnh hưởng rất lớn đến thế gian, thế giới. Tôi sẽ có ví dụ thực:

Năm 1973, khi đại sư huynh của tôi, thiền sư Viên Minh, lúc ấy đang ở chùa Phật Bảo, Phú Thọ Hoà, ngài khởi tâm về đèo Hải Vân, Lăng Cô lập chùa. Ban đầu chỉ là những mái lá giản dị, sau trở thành một danh lam. Chính ngôi chùa này đã hấp dẫn tôi, nên năm 1974 tôi cũng bỏ Sài Gòn về xin tu học ở đây. Thế rồi bao nhiêu biến động, trùng trùng duyên khởi, ngôi chùa HK ban đầu ấy bây giờ biến hoá thành 3 cơ ngơi ở Huế. Tôi ở HKST, hai vị sư đệ của tôi ở chùa HK (I) và chùa Pháp Luân, Tuệ Tĩnh đường Liên Hoa. Và bây giờ thì chư tăng khá đông và cả hằng trăm cư sĩ nam nữ nữa. Vậy, chỉ một khởi niệm của vị đại sư huynh tôi mà nó duyên khởi trùng trùng, nên ở Huế, chúng tôi, chư sư có mặt và hằng trăm Phật tử cũng đang có mặt để tu học. Ngược lại, nếu sư huynh tôi không khởi niệm ấy thì làm gì có chúng tôi và cả thế hệ tăng tục đang và sẽ còn trùng trùng duyên khởi trong tương lai nữa? Và hiện tại, như tôi chẳng hạn, nếu tôi không khởi niệm xin đất trồng rừng thì hiện tại, làm gì có mặt Rừng thiền HKST và đại chúng đang tu học ở đây?

Rộng hơn tí nữa, nếu đức Đạt Lai Lạt Ma không khởi niệm rời bỏ Tây Tạng năm 1959 thì bây giờ làm gì có một hệ Phật giáo Mật Tông đang lôi cuốn hàng ngàn, hàng triệu tăng tục có mặt khắp các châu lục cùng những buổi giảng pháp của ngài có đến trăm trăm ngàn ngàn người nghe? Còn nữa, ví như khởi niệm của thiền sư Nhất Hạnh? Ví như khởi niệm của thiền sư Thanh Từ? Ví như khởi niệm của chư vị thiền sư Thái Lan, Miến Điện? Họ là những nhân cách lớn, sứ mạng lớn, ảnh hưởng Tăng tín đồ Việt Nam và cả thế giới! Tôi nói “ảnh hưởng” chứ không nói hoàn toàn tốt, vì là thế gian pháp nên tốt có thể lẫn lộn xấu, và xấu có thể lẫn lộn tốt.

Những khởi niệm như trên là duyên khởi trùng trùng, nhưng đức Phật chỉ chú trọng Thập Nhị Duyên Khởi, vì nó là cốt lõi của giáo pháp: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai”. Nói cách khác là phải minh sát tiến trình vận động của Thập Nhị Duyên Khởi theo chiều thuận, chiều sinh và cả theo chiều nghịch, chiều diệt, mà tôi có thể tóm tắt cô đọng bằng những câu thơ lục bát như sau: 

Vô minh, bất giác làm duyên
Sinh hành tạo tác chẳng yên chút nào
Thức tâm dao động lao xao
Kiếm tìm danh sắc thai bào thọ sanh
Tháng ngày giọt máu lớn nhanh
Sáu căn đầy đủ tượng thành ấu nhi
Nghiệp, tâm nuôi lớn từng kỳ
Chào đời mở mắt, biết đi đứng rồi
Sáu trần đối tượng mớm mồi
Xúc sanh cảm thọ, biết mùi biết hương
Vui buồn, khổ lạc, ghét thương
Thế là sân dục tìm đường nổi lên
Ái hà, dòng nước triền miên
Lạc thì cố thủ, khổ liền cố xua
Đầy lòng, trăm chuyện chán, ưa
Ngàn muôn xấu, tốt chẳng vừa góp thâu
Hạt mầm ba cõi ẩn sâu
Tạo thành nghiệp hữu dẫn đầu tái sanh
sanh, già lão sẵn dành
Rồi tìm sự chết, mối manh có rồi
sầu, bi, não không thôi
ưu, hận, khổ luân hồi trường miên
Nếu vô minh biết đoạn triền
Chánh niệm, tỉnh giác thường xuyên giữ gìn
Đâu còn tạo tác, bíu vin
Hành diệt, thức diệt, tuệ nhìn sáng trong
Danh sắc tìm kiếm tiêu vong
Căn trần xúc đối giữa lòng nhẹ sao
Lắng nghe cảm thọ thế nào
Buồn vui, thương ghét chẳng xao động mình
Tham sân thấy rõ sự tình
Ái hà, dòng chảy phiêu linh cạn rồi
Đâu còn thủ giữ giống mồi
Đâu còn gieo hữu sáu nơi, ba đường
Không sanh, già lão chẳng vương
Đâu còn sự chết tìm đường ghé thăm
Khổ sầu từ đó biệt tăm
Bao nhiêu ưu não tí tăn chẳng còn
Thế là khổ uẩn tiêu mòn
Toàn bộ duyên khởi, khoen tròn lìa tan
Đâu còn sinh tử buộc ràng
Giác ngộ, giải thoát thênh thang cõi bờ!

Ở trên, chúng ta lưu ý từ Hành (saṅkhāra), do có vô minh và ái dục ẩn đằng sau nên tạo tác các nghiệp, đưa tâm thức tái sanh đi tìm kiếm các cõi tương thích. Và Hành diệt nghĩa là không còn saṅkhāra được gọi là Vô Hành (asaṅkhāra), nhưng do không có từ tương đương nên các nhà Phật học đã mượn thuật ngữ Vô Vi của Lão Tử để nói lên khái niệm Vô Hành. Vậy, pháp Vô Hành nghĩa là pháp Vô Vi, không còn tạo tác các nghiệp, hàm chỉ Niết-bàn.

Và Niết-bàn có 3 đặc tính: Không tính (do thấy rõ vô ngã của tất cả pháp), Vô tướng (do thấy rõ vô thường của các pháp hành), Vô tác (do không còn tạo tác nên chấm dứt tất cả khổ).

Ở đây, những ai còn thắc mắc pháp Vô Hành, Vô Vi (Niết-bàn) là vô ngã nhưng không bị vô thường và khổ chi phối thì hãy xem nguồn liên hệ: 

- Sabbe saṅkhārā aniccāti sabbe tebhūmakasaṅkhārā aniccā. Sabbe dhammā anattāti sabbe catubhūmakadhammā anattā… (SN-a, II. 317)

“Sabbe saṅkhārā aniccā” nghĩa là tất cả các Hành thuộc về ba cõi đều là vô thường. “Sabbe dhammā anattā”  nghĩa là tất các Pháp nằm trong bốn cõi đều là vô ngã (Bốn cõi là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới và Siêu thế giới).

- Sasaṅkhārā, bhikkhave, uppajjanti pāpakā akusalā dhammā, no asaṅkhārā. Tesaṃyeva saṅkhārānaṃ pahānā evaṃ te pāpakā akusalā dhammā na hontī’’ti (AN I. 82).

Nghĩa: Này các thầy tỳ-khưu! Những pháp ác, bất thiện sinh khởi do đi cùng với các Pháp Hữu Vi (Hành-saṅkhāra), không phải là các Pháp Vô Vi (Vô Hành-asaṅkhāra). Thật vậy, do việc từ bỏ các Pháp Hữu Vi nên những pháp ác, bất thiện không còn hiện hữu.

Còn nữa, tôi xin cung cấp thêm 3 câu Kinh Lời Vàng số 277, 278, 279 để mọi người rộng đường nghiên cứu:

Các hành là vô thường (anicca)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ vô thường xưa nay
Thoát ly khổ não, đọa đày
Là Thanh Tịnh Đạo, ai rày chớ quên!”
(Sabbe saṅkhārā aniccā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).
Các hành là khổ (dukkha)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ đau thương, khổ nàn
Thoát ly phiền não, chán nhàm
Là Thanh Tịnh Đạo, Niết-bàn tìm đâu?!”
(Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).
Các pháp hữu, vô-vi đều là vô ngã (anatta)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các pháp vô ngã, chẳng thường là ta
Thoát ly phiền não, ác tà
Là Thanh Tịnh Đạo, chẳng xa lối về!”
(Sabbe dhammā anattā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).

Đức Phật từng nói rằng: “Biển lớn kia chỉ thuần một vị mặn như thế nào thì giáo pháp của Như Lai cũng chỉ thuần một vị thoát khổ như thế ấy!”

Mong lắm vậy thay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2021(Xem: 4786)
Cách nay chừng vài tuần lễ tôi nhận được một phong thư dày gửi đi từ Thầy Thanh An ở Tích Lan, trong đó có quyển sách trên. Sách do nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2020, in loại bìa cứng mạ vàng rất trang nhã. Tất cả có 180 trang chữ nhỏ. Tác giả là một vị Hòa Thượng người Tích Lan đã ở Hoa Kỳ lâu năm, và dĩ nhiên là Hòa Thượng Gunaratana đã dịch và tham cứu từ bản tiếng Pali, vốn là những Kinh điển gốc của Phật Giáo Nam Truyền và Ngài đã viết cũng như bình chú bản kinh nầy bằng tiếng Anh nhan đề là: Meditation on Perception-Ten Healing Practices to Cultivate Mindfulness. Thầy Thanh An là một nghiên cứu sinh về Phật Giáo ở bậc Tiến Sĩ tại Đại Học Kelaniya, Tích Lan. Thầy Thanh An cho biết đây là tác phẩm đầu tay của Thầy ấy dịch từ Anh Văn ra Việt Văn.
11/03/2021(Xem: 4316)
Chính quyền Trung ương rất mong muốn quảng bá việc Nghiên cứu Phật giáo tại Ấn Độ, và đang chuẩn bị sẵn sàng một cơ sở dữ liệu hoàn chỉnh về các trường Đại học Ấn Độ, cung cấp các chương trình Phật học. The University Grants Commission (UGC) đã gửi một Chỉ thị đến tất cả các trường học để cung cấp dữ liệu liên quan về các chương trình học liên quan đến Phật giáo. Điều này được cho là sẽ hồi sinh Ấn Độ, như một trung tâm nghiên cứu và truyền thống Phật giáo trên toàn thế giới.
10/03/2021(Xem: 7692)
Cư sĩ Quảng Hải Phan Trung Kiên sinh năm Nhâm Dần (1962) tại Phường Tân Thái, Quận 3, Đà Nẵng (nay là Phường Mân Thái), là người con thứ ba trong gia đình có 9 anh em (5 trai, 4 gái). Vượt biên cùng với Ba và 3 anh em trai vào tháng 6 năm 1981 và định cư đến Mỹ vào cuối tháng 3 năm 1982. Má và các em gái cùng em trai út vượt biên năm 1988 và cả gia đình sum họp tại Hoa Kỳ vào năm 1989.
09/03/2021(Xem: 4238)
Đài Bắc, Đài Loan: Vào ngày 7 tháng 3 vừa qua, trong một cuộc mít tinh đông đảo do Hiệp hội Phúc lợi Tây Tạng Đài Loan (在 台 藏人 福利 協會) và Mạng lưới Nhân quyền cho Tây Tạng, Đài Loan (西藏 台灣 人權 連線 會), hơn 34 tổ chức phi chính phủ từ khắp đất nước Đài Loan, đã cùng tham gia kỷ niệm 62 năm ngày tổng khởi nghĩa chống Tàu cộng xâm lăng 10/3/1959-10/3/2021. Cuộc mít tinh cũng đánh dấu kỷ niệm gần 70 năm ngày Ký kết Thỏa thuận 17 điểm giữa Tây Tạng và nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc.
09/03/2021(Xem: 4761)
Cái gì là “Không thường cũng không đoạn”?Ý nghĩa “Không Thường” chính là tất cả sự vật không phải cố định vĩnh cữu bất biến, mà là thời khắc nào cũng bị biến đổi mãi mãi.Ý nghĩa “Không Đoạn” là chỉ trong chỗ biến đổi này chưa từng có dừng lại, cũng chính là chưa có phút giây nào “Gián Đoạn”.Giả sử như sự sự vật vật trong thế giới này đích thực có thật tại thì không cần phải phát sanh ra hiện tượng “Không”.Hôm qua có mà hôm nay không thì đây chính thuộc về “Đoạn”.Còn nếu như có vĩnh cữu thì đó chính thuộc về “Thường”.Thử hỏi thế giới hiện thật đây là “Đoạn” như thế nào và “Thường” như thế nào? Đúng ra sự sự vật vật trên thế giới đều là “Không, không phải thường cũng không phải đoạn”.
09/03/2021(Xem: 8597)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
08/03/2021(Xem: 4020)
Dharamshala: Danh sách tham gia ngày càng tăng, bởi các nhà lãnh đạo thế giới đã được tiêm vaccine COVID-19, vào đầu giờ hành chính ngày 6 tháng 3 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal, Dharamshala, H.P., Ấn Độ. Sau khi tiêm liều vaccine COVID-19, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã kêu gọi tất cả những người đủ điều kiện, đặc biệt là ‘bệnh nhân bị nhiễm covid-19’ hãy vì lợi ích chung cho xã hội, nhanh chóng đăng ký tiêm liều vaccine COVID-19. “Điều này rất quan trọng, vì vậy tôi đã thực hiện việc tiêm vaccine COVID-19, tôi muốn chia sẻ nhiều người nên đã can đảm để thực hiện tiêm liều vaccine COVID-19 đầu tiên tại Bệnh viện Zonal.
07/03/2021(Xem: 7151)
Huế, cố đô một thời, là thành phố nhỏ bé như vậy mà lại có nhiều chùa nhất so với các miền khác trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Bởi, nơi đây có chiều dài lịch sử lập quốc của nhà Nguyễn từ khi người đầu tiên khai mở là Nguyễn Hoàng, muốn tránh sự sát hại của người anh rể là Trịnh Kiểm nên xin đi xa vào Nam để khai khẩn đất hoang theo sự vấn kế của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua câu phán: “ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.“ Và, Chùa Thiên Mụ danh Tự có từ đó. Đứng đầu bảng trong 10 ngôi chùa nổi tiếng tại Huế.
07/03/2021(Xem: 4762)
“Ai thấy Pháp người ấy thấy Ta, ai thấy Ta người ấy thấy Pháp”. Đây là lời dạy của đức Phật dành cho tỷ-kheo Vakkali. Lời dạy này được ghi lại trong Kinh Tiểu Bộ và Kinh Tương Ưng; do Hòa thượng Minh Châu dịch từ tiếng Pàli sang tiếng Việt. Trước khi tìm hiểu lời dạy trên của đức Phật, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về ngài Vakkali một chút.
06/03/2021(Xem: 4609)
Kính bạch Thầy nhân ngày phụ nữ sắp tới và còn trong tháng giêng, con chợt nghe bài hát này , nhớ đến trong bài pháp thoại Thầy kể về cụ bà Tâm Thái . Kính dâng bài thơ này đến Cụ Bà Tâm Thái và những bà mẹ từ thôn quê đến thị thành nhân ngày phụ nữ . Kính, HH Lễ hội 8/3 ngày phụ nữ bình đẳng ! Những bà mẹ quê ....từ sáng tinh mơ, Có khi nào nghĩ đến quyền lợi bao giờ. Sáng chiều vất vã hy sinh trong lặng lẽ !
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]