Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

18/12/201509:11(Xem: 8586)
Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Sīlaguṇa-Mahāthera)

NHẶT LÁ RỪNG XƯA
Tủ sách Huyền Không Sơn Thượng

(Phật lịch 2558 – 2015)

Duyên Khởi Ngoại Giới Duyên Khởi Nội Tâm

 

Lời thưa: Sau bài viết “Những Câu Hỏi Tế Vi”, tôi nhận được khá nhiều câu hỏi từ trong email của tôi cũng như những comment của các bạn Lý Học Phật, Lưu-tâm-Lực, Jan nguyễn, hưng trần... liên hệ đến đề tài. Nhận thấy nội hàm vấn đề không thể chỉ trả lời năm bảy dòng là xong, nên tôi kính nhờ BBT/TVHS cho chuyển tải bài viết này, xem như trả lời chung chứ không phải riêng cho một câu hỏi nào. Tôi chỉ nói cái gốc của vấn đề chứ không bàn đến cành, nhánh của vấn đề. Và tôi cũng không dám chắc đáp ứng được những thắc mắc của chư vị - nhất là kiến giải “bác lãm” của bạn Lý Học Phật mà tôi “thường không lãnh hội nổi”. Đây chỉ là sự chia sẻ của một người học Phật luôn cảm thấy mình còn phải học mãi, học hoài do sở học chỉ mong như là một hạt bụi được dính chân gót chân của các bậc xuất trần thượng sĩ! Trân kính.

I- Duyên khởi ngoại giới.

Sáng nay, ngồi uống trà trong sương sớm. Cầm chung trà nóng trong lòng bàn tay, nghe hơi ấm len nhẹ rồi lan toả cả toàn thân. Tôi thấy hơi và hương trà bốc lên rất mỏng, rất mảnh, rất tế, khó nhận biết. Nhưng mà tôi thấy biết rất rõ ràng cái khí, cái hương ấy. Rồi tôi chợt nghĩ: “Cái khí cái hương nhẹ, mỏng, tế vi ấy đang hiện hữu, đang cùng với tôi, cùng với vũ trụ đang là, đang mới mẻ, tinh khôi trong phút giây này. Tôi cảm ơn trời đất, nhật nguyệt, sum la vạn tượng... đã cùng hiện hữu, cùng có mặt với tôi trong dòng sống, trong sự sống muôn đời đang chảy trôi không gián đoạn, không đứt khúc! Ôi! Sự mầu nhiệm của thực tại đang là cùng chung với vạn hữu khi nhận thức của tôi có mặt!”

Tại sao tôi lại nói vậy? Những sát-na tôi cảm nhận hơi khí và hương trà là những sát-na vĩnh cửu, không lặp lại hai lần. Vả giả dụ không có hơi khí, hương trà sáng nay thì sẽ không có sơn hà đại địa, không có nhật nguyệt trăng sao, và không có cả quả đất, không có cả nhân loại 7 tỷ người!

Khi có hơi khí, hương trà và sự cảm nhận của tôi thì toàn bộ pháp giới đều có mặt. Có hơi khí, có hương trà thì nước pha trà, trà, chung trà có mặt. Nước là nước tại HKST qua công trình thợ thầy khoan giếng, xây bể chứa, những cái máy bơm nước; lửa đun trà lấy từ nguồn lưới điện quốc gia với công trình hạ thế đi qua mấy cây số đường rừng; trà thì ở cao nguyên Bắc Lạng có người trồng, thu hái, chế biến; chung trà bằng gốm đất nung thuộc một lò sản xuất, do một nhóm thợ thủ công nào đó. Đưa đôi mắt toàn cục ta thấy cả sự hiện hữu cả nhân, vật, thế gian, thế giới khi truy nguyên liên hệ thợ thầy, xuất xứ thiết bị, máy móc, thời gian, công phu, sự đóng góp không biết bao nhiêu nhân và duyên nữa trong suốt quá trình vận hành ấy. Vậy, có hơi khí, hương trà và tôi cảm nhận thì chúng đồng hiện hữu cả vạn pháp tương quan.

Trên bàn viết của tôi có một hạt bụi. Hạt bụi có mặt thế là vũ trụ hiện hữu. Tại sao vậy. Nếu hạt bụi không có thì ngôi nhà này không có, đất đá nơi ngọn núi này cũng không có. Thế là không có cả tỷ năm trước, đất đá này được phun trào từ một miệng núi lửa nào đó. Từ đây ta có công thức duyên khởi:

“Hạt bụi có thì vũ trụ có

Hạt bụi không thì vũ trụ không”.

Ta có thể chuyển rộng nghĩa sang Pāḷi công thức ấy:

“Rajasmiṃ sati sakalalokadhātu hoti

Rajass’ uppādā sakalalokadhātu uppajjati

Rajasmiṃ asati sakalalokadhātu na hoti

Rajassa nirodhā sakalalokadhātu nirujjhati”.

Raja (m) là bụi; sakala-lokadhātu (f) là vũ trụ nên ta có thể dịch:

“Khi hạt bụi hiện hữu, vũ trụ hiện hữu; do sự sinh khởi của hạt bụi, vũ trụ sinh khởi. Khi hạt bụi biến mất, vũ trụ biến mất; do sự biến mất của hạt bụi, vũ trụ biến mất”.

Vậy thì bất cứ cái gì xẩy ra, hiện hữu, tồn tại – nhìn thì tưởng như hỗn loạn nhưng chúng nằm trong một luật tắc vô cùng nghiêm minh và chặt chẽ, trong một tương quan tương duyên trùng trùng, tương tác, tương thành. Ai đã từng biết qua bài nói chuyện của Edward Norton Lorenz trước Hiệp hội phát triển khoa học Hoa Kỳ (American Association for the Advancement of Science) có tựa đề Predictability: Does the Flap of a Butterfly's Wings in Brazil Set off a Tornado in Texas? (Tính dự đoán được: Liệu con bướm đập cánh ở Brasil có thể gây ra cơn lốc ở Texas?) thì sẽ hiểu sự trùng trùng duyên khởi tương tác của vạn hữu trong “hiệu ứng của cánh bướm” này! (Xem Wikipedia).

Tồn tại của vạn pháp là tồn tại tương quan, không có tương quan, tương duyên, tương sinh thì không có cái gì được gọi là tồn tại. Vậy có cái gì bị diệt mất không? Cũng không có cái gì bị diệt mất cả. Định luật bảo toàn năng lượng là một nguyên lý tổng quát cho tất cả các lý thuyết vật lý (cơ học, điện từ học, vật lý hạt nhân...). Theo đó, trong toàn vũ trụ tổng năng lượng không đổi, nó chỉ có thể chuyển từ hệ này sang hệ khác. Người ta không thể “tạo ra” năng lượng, người ta chỉ “chuyển dạng” năng lượng mà thôi. Năng lượng không tự sinh ra cũng không tự mất đi mà chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác hay chuyền từ vật này sang vật khác (Xem Wikipedia).

Tất cả những duyên khởi này, duyên khởi ngoại giới, là cả vũ trụ, nhật nguyệt, sum la vạn tượng – chúng muôn đời vô thường, vô ngã; và vì là luật tắc tự nhiên của vạn hữu nên chúng không có khổ (dukkha).

II- Duyên khởi nội tâm.

Chính duyên khởi nội tâm này, do cảm giác, tri giác và nhận thức chủ quan chế biến, xen dự vào tiến trình sinh khởi nên có đầy đủ vô thường, vô ngã và dukkha.

Ta sẽ tuần tự khảo sát.

“ Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không!”

Hai câu thơ của thiền sư Đạo Hạnh mới nghe qua ai cũng tưởng là nó diễn đạt duyên khởi ngoại giới như chúng ta vừa bàn ở trên.

Phan Kế Bính dịch rất thơ:

“- Có thì có tự mảy may,

Không thì cả thế gian này cũng không!

Đúng vậy chứ còn gì nữa. Nó y chang. Nhưng không, không phải vậy. Thiền sư Đạo Hạnh muốn nói đến lý duyên khởi nội tâm, nhưng do giới hạn của Việt dịch nên đã “biến trong thành ngoài” đó thôi!

Cụm từ quan trọng nhất là “tác hữu”; tác là tư tác (cetanā); vậy hai câu kệ ấy có nghĩa là: “Khởi niệm có thì hạt bụi, hạt cát li ti cũng có. Khởi niệm không thì cả thế gian này cũng không!”

Ta có thể chuyển ngữ nghĩa hai câu kệ ấy sang “công thức” Pāḷi:

“Khaṇasmiṃ sati loko hoti

Khaṇass’uppādā loko uppajjati

Khaṇasmiṃ asati loko na hoti

Khaṇassa nirodhā loko nirujjhati”.

Khaṇa (m) là sát-na hay một chập tư tưởng nên ta có thể dịch gần sát với nguyên văn:

“Khi một sát-na tư tưởng hiện hữu, thế giới hiện hữu; do sự sinh khởi của sát-na tư tưởng, thế giới sinh khởi. Khi sát-na tư tưởng biến mất, thế giới biến mất; do sự biến mất của sát-na tư tưởng, thế giới biến mất”.

Ý nghĩa của đoạn kệ này nó đúng ý cái câu mà những người cư sĩ thường nói qua cửa miệng: “Vạn pháp duy tâm tạo”. Nhưng khi nói “duy tâm tạo” thì có thể sinh hiểu lầm, phải nói đúng y như kinh Lời Vàng số 1, 2 mới được:

“Các pháp, tư tác dẫn đầu
Tư tác chủ ý bắc cầu đưa duyên
Nói, làm xấu ác, chẳng hiền
Bánh xe bò kéo, khổ liền theo sau”.
(Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā,
manasā ce paduṭṭhena
bhāsati vā karoti vā,
tato naṃ dukkhamanveti
cakkaṃ’vā vahato padaṃ).
“Các pháp, tư tác dẫn đầu
Tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên
Nói, làm lành tốt, thiện hiền
Như hình dọi bóng, vui liền theo sau”.
(Manopubbaṅgamā dhammā
manoseṭṭhā manomayā,
manasā ce pasannena
bhāsati vā karoti vā,
tato naṃ sukhamanveti
chāyā’va anapāyinī).

Theo Abhidhamma thì ý (mano), thức (viññāṇa), tâm (citta)... đồng nghĩa; nhưng tôi chọn dịch là tư tác (cetanā) vì tư tác mới là nghiệp. Từ trước đến nay, nhiều nơi bảo tác ý (manasikāra) là nghiệp; không phải vậy, tác ý mới chỉ là hướng tâm, như bánh lái của chiếc thuyền. Trong 7 biến hành tâm sở (Duy Thức chỉ 5): Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn – thì chính tư (tư tác-cetanā) mới quan trọng, mới tạo nghiệp; sau đó, các lộ trình tâm mới khởi theo – chúng đồng khởi. Tuy nhiên, nếu dịch là tâm hay ý đều không sai, vì ý, tâm, tư tác - được coi là tâm và các pháp (dhammā), hai từ đầu trong câu kệ, chính là những tâm sở (theo chú giải).

Trích dẫn dài dòng như vậy để đi đến cái gốc của vấn đề đó là khởi niệm, khởi tư tưởng; nếu khởi niệm, khởi tư tưởng tốt (tâm vô tham, vô sân, vô si) thì những tâm sở đi theo sẽ tốt, là những thiện tâm sở; nếu khởi niệm, khởi tư tưởng xấu (tâm có tham, sân, si) thì những tâm sở đi theo sẽ xấu, là những bất thiện tâm sở.

Từ cái bản căn ấy, trong đời sống thường nhật, chúng ta đôi khi có một khởi niệm, đi kèm một quyết định tâm để tạo cho mình một hướng đi, tạo một ngã rẽ mới có liên hệ với ba-la-mật – thì cái này mới thật là trùng trùng duyên khởi, ảnh hưởng rất lớn đến thế gian, thế giới. Tôi sẽ có ví dụ thực:

Năm 1973, khi đại sư huynh của tôi, thiền sư Viên Minh, lúc ấy đang ở chùa Phật Bảo, Phú Thọ Hoà, ngài khởi tâm về đèo Hải Vân, Lăng Cô lập chùa. Ban đầu chỉ là những mái lá giản dị, sau trở thành một danh lam. Chính ngôi chùa này đã hấp dẫn tôi, nên năm 1974 tôi cũng bỏ Sài Gòn về xin tu học ở đây. Thế rồi bao nhiêu biến động, trùng trùng duyên khởi, ngôi chùa HK ban đầu ấy bây giờ biến hoá thành 3 cơ ngơi ở Huế. Tôi ở HKST, hai vị sư đệ của tôi ở chùa HK (I) và chùa Pháp Luân, Tuệ Tĩnh đường Liên Hoa. Và bây giờ thì chư tăng khá đông và cả hằng trăm cư sĩ nam nữ nữa. Vậy, chỉ một khởi niệm của vị đại sư huynh tôi mà nó duyên khởi trùng trùng, nên ở Huế, chúng tôi, chư sư có mặt và hằng trăm Phật tử cũng đang có mặt để tu học. Ngược lại, nếu sư huynh tôi không khởi niệm ấy thì làm gì có chúng tôi và cả thế hệ tăng tục đang và sẽ còn trùng trùng duyên khởi trong tương lai nữa? Và hiện tại, như tôi chẳng hạn, nếu tôi không khởi niệm xin đất trồng rừng thì hiện tại, làm gì có mặt Rừng thiền HKST và đại chúng đang tu học ở đây?

Rộng hơn tí nữa, nếu đức Đạt Lai Lạt Ma không khởi niệm rời bỏ Tây Tạng năm 1959 thì bây giờ làm gì có một hệ Phật giáo Mật Tông đang lôi cuốn hàng ngàn, hàng triệu tăng tục có mặt khắp các châu lục cùng những buổi giảng pháp của ngài có đến trăm trăm ngàn ngàn người nghe? Còn nữa, ví như khởi niệm của thiền sư Nhất Hạnh? Ví như khởi niệm của thiền sư Thanh Từ? Ví như khởi niệm của chư vị thiền sư Thái Lan, Miến Điện? Họ là những nhân cách lớn, sứ mạng lớn, ảnh hưởng Tăng tín đồ Việt Nam và cả thế giới! Tôi nói “ảnh hưởng” chứ không nói hoàn toàn tốt, vì là thế gian pháp nên tốt có thể lẫn lộn xấu, và xấu có thể lẫn lộn tốt.

Những khởi niệm như trên là duyên khởi trùng trùng, nhưng đức Phật chỉ chú trọng Thập Nhị Duyên Khởi, vì nó là cốt lõi của giáo pháp: “Ai thấy duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai”. Nói cách khác là phải minh sát tiến trình vận động của Thập Nhị Duyên Khởi theo chiều thuận, chiều sinh và cả theo chiều nghịch, chiều diệt, mà tôi có thể tóm tắt cô đọng bằng những câu thơ lục bát như sau: 

Vô minh, bất giác làm duyên
Sinh hành tạo tác chẳng yên chút nào
Thức tâm dao động lao xao
Kiếm tìm danh sắc thai bào thọ sanh
Tháng ngày giọt máu lớn nhanh
Sáu căn đầy đủ tượng thành ấu nhi
Nghiệp, tâm nuôi lớn từng kỳ
Chào đời mở mắt, biết đi đứng rồi
Sáu trần đối tượng mớm mồi
Xúc sanh cảm thọ, biết mùi biết hương
Vui buồn, khổ lạc, ghét thương
Thế là sân dục tìm đường nổi lên
Ái hà, dòng nước triền miên
Lạc thì cố thủ, khổ liền cố xua
Đầy lòng, trăm chuyện chán, ưa
Ngàn muôn xấu, tốt chẳng vừa góp thâu
Hạt mầm ba cõi ẩn sâu
Tạo thành nghiệp hữu dẫn đầu tái sanh
sanh, già lão sẵn dành
Rồi tìm sự chết, mối manh có rồi
sầu, bi, não không thôi
ưu, hận, khổ luân hồi trường miên
Nếu vô minh biết đoạn triền
Chánh niệm, tỉnh giác thường xuyên giữ gìn
Đâu còn tạo tác, bíu vin
Hành diệt, thức diệt, tuệ nhìn sáng trong
Danh sắc tìm kiếm tiêu vong
Căn trần xúc đối giữa lòng nhẹ sao
Lắng nghe cảm thọ thế nào
Buồn vui, thương ghét chẳng xao động mình
Tham sân thấy rõ sự tình
Ái hà, dòng chảy phiêu linh cạn rồi
Đâu còn thủ giữ giống mồi
Đâu còn gieo hữu sáu nơi, ba đường
Không sanh, già lão chẳng vương
Đâu còn sự chết tìm đường ghé thăm
Khổ sầu từ đó biệt tăm
Bao nhiêu ưu não tí tăn chẳng còn
Thế là khổ uẩn tiêu mòn
Toàn bộ duyên khởi, khoen tròn lìa tan
Đâu còn sinh tử buộc ràng
Giác ngộ, giải thoát thênh thang cõi bờ!

Ở trên, chúng ta lưu ý từ Hành (saṅkhāra), do có vô minh và ái dục ẩn đằng sau nên tạo tác các nghiệp, đưa tâm thức tái sanh đi tìm kiếm các cõi tương thích. Và Hành diệt nghĩa là không còn saṅkhāra được gọi là Vô Hành (asaṅkhāra), nhưng do không có từ tương đương nên các nhà Phật học đã mượn thuật ngữ Vô Vi của Lão Tử để nói lên khái niệm Vô Hành. Vậy, pháp Vô Hành nghĩa là pháp Vô Vi, không còn tạo tác các nghiệp, hàm chỉ Niết-bàn.

Và Niết-bàn có 3 đặc tính: Không tính (do thấy rõ vô ngã của tất cả pháp), Vô tướng (do thấy rõ vô thường của các pháp hành), Vô tác (do không còn tạo tác nên chấm dứt tất cả khổ).

Ở đây, những ai còn thắc mắc pháp Vô Hành, Vô Vi (Niết-bàn) là vô ngã nhưng không bị vô thường và khổ chi phối thì hãy xem nguồn liên hệ: 

- Sabbe saṅkhārā aniccāti sabbe tebhūmakasaṅkhārā aniccā. Sabbe dhammā anattāti sabbe catubhūmakadhammā anattā… (SN-a, II. 317)

“Sabbe saṅkhārā aniccā” nghĩa là tất cả các Hành thuộc về ba cõi đều là vô thường. “Sabbe dhammā anattā”  nghĩa là tất các Pháp nằm trong bốn cõi đều là vô ngã (Bốn cõi là Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới và Siêu thế giới).

- Sasaṅkhārā, bhikkhave, uppajjanti pāpakā akusalā dhammā, no asaṅkhārā. Tesaṃyeva saṅkhārānaṃ pahānā evaṃ te pāpakā akusalā dhammā na hontī’’ti (AN I. 82).

Nghĩa: Này các thầy tỳ-khưu! Những pháp ác, bất thiện sinh khởi do đi cùng với các Pháp Hữu Vi (Hành-saṅkhāra), không phải là các Pháp Vô Vi (Vô Hành-asaṅkhāra). Thật vậy, do việc từ bỏ các Pháp Hữu Vi nên những pháp ác, bất thiện không còn hiện hữu.

Còn nữa, tôi xin cung cấp thêm 3 câu Kinh Lời Vàng số 277, 278, 279 để mọi người rộng đường nghiên cứu:

Các hành là vô thường (anicca)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ vô thường xưa nay
Thoát ly khổ não, đọa đày
Là Thanh Tịnh Đạo, ai rày chớ quên!”
(Sabbe saṅkhārā aniccā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).
Các hành là khổ (dukkha)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các hành vốn dĩ đau thương, khổ nàn
Thoát ly phiền não, chán nhàm
Là Thanh Tịnh Đạo, Niết-bàn tìm đâu?!”
(Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).
Các pháp hữu, vô-vi đều là vô ngã (anatta)
“Khi tuệ quán chiếu tỏ tường
Các pháp vô ngã, chẳng thường là ta
Thoát ly phiền não, ác tà
Là Thanh Tịnh Đạo, chẳng xa lối về!”
(Sabbe dhammā anattā’ti
yadā paññāya passati,
atha nibbindati dukkhe
esa maggo visuddhiyā).

Đức Phật từng nói rằng: “Biển lớn kia chỉ thuần một vị mặn như thế nào thì giáo pháp của Như Lai cũng chỉ thuần một vị thoát khổ như thế ấy!”

Mong lắm vậy thay!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/04/2015(Xem: 8014)
Tôi có quen với một gia đình, có thể nói là thuộc thành phần trí thức, bởi cha mẹ người bạn đều là nhà giáo, bản thân anh là kỹ sư và vợ là dược sĩ. Tuy vậy, không biết suy nghĩ thế nào, anh luôn tin vào các sách bày bán nhan nhản ngoài phố được cải biên, “làm đi, làm lại” mỗi năm như Lịch vạn niên, Xem ngày giờ, việc lành dữ trong năm và thường lên internet truy cập các trang chuyên hướng dẫn về ngày lành tháng tốt, cúng kiếng, xem tuổi kiết hung?
20/04/2015(Xem: 7922)
Ni Sư Thubten Chodron (thế danh Cherry Green), sinh năm 1950, lớn lên gần vùng Los Angeles. Ni sư hoàn thành Cử Nhân Lịch Sử tại Đại Học UCLA năm 1971. Sau khi du lịch qua Châu Âu, Bắc Phi và Châu Á trong khoảng một năm rưỡi, Ni sư trở về Mỹ, lấy chứng chỉ sư phạm, theo học chương trình sau đại học tại USC về Giáo Dục và dạy học ở Hệ Thống Các Trường tại thành phố Los Angeles. Năm 1975, Ni sư tham dự một khóa tu thiền của Ngài Lama Yeshe và ngài Zopa Rinpoche. Sau đó Ni sư qua Nepal tiếp tục tu học và hành thiền tại Tu Viện Kopan. Năm 1977, Ni sư được Ngài Kyabje Ling Rinpoche cho xuất gia tại Dharamsala, Ấn Độ, và năm 1986 Ni sư thọ đại giới tại Đài Loan…
19/04/2015(Xem: 5969)
Con người ta sống trên đời thường tự chuốc lấy khổ đau, phiền não nhiều hơn gấp bội phần cái khổ không đáng phải khổ của một thân chúng sanh, ấy là vì vọng tâm chấp ngã, chấp pháp.
18/04/2015(Xem: 15724)
Như một áng tinh vân bay qua bầu trời tăm tối Như một giọt nước trong lành giữa sa mạc cằn khô Như một đốm sáng lung linh trong đêm tối mộng hồ Người hiện giữa trần gian Như thực như chơn một Như Lai sứ giả Đã sương tuyết cao sơn Vẫn không mỏi mệt Đông Tây bươn bả Không cau mày giữa rừng cố chấp mê si Vũ khí của người chỉ có trí tuệ và từ bi Thắp ấm trái tim Mở rộng tấm lòng bao dung nhân thế Chỉ chừng ấy thôi Là tôi đã rưng rưng giọt lệ Kính thương người tuổi hạc đã cao Ân đức của người Sánh tựa trăng sao Tịch nhiên chiếu Vô nhân chiếu
18/04/2015(Xem: 9678)
Trong khi cả thế giới lựa chọn chỉ số GDP (Gross Domestic Products – Tổng sản phẩm quốc nội) làm thước đo thịnh vượng và phát triển, thì riêng tại đất nước này, chỉ số đó bị loại bỏ thay vào đó là GNH (Gross National Happiness- Tổng hạnh phúc quốc dân).
17/04/2015(Xem: 8540)
Mười lần như chục, hôm nào gặp bữa ăn trưa trong căng-tin có món xúc-xích là mấy người đồng nghiệp Đức của tôi hay nói đùa bằng một câu triết lý cà rởn rằng: trên đời này cái gì cũng có đầu có đuôi, có thủy có chung, duy chỉ cây xúc-xích là có hai đầu. Có ông nhạc sĩ người Đức Stephan Remmler còn viết ra một bài tình ca nổi tiếng theo tựa đề ấy là: Alles hat ein Ende nur die Wurst hat zwei. Câu nói vui, nói ra để cười với nhau. Xúc-xích là món ăn rất phổ biến của người Đức, to nhỏ đủ cỡ, có mặt mọi nơi, từ tiệm ăn tay cầm cho đến các món ăn nấu trong nhà hàng với nhiều gia vị khác nhau, với rau xanh, cải đỏ hay kèm bột cà ri, mù tạt v.v..
16/04/2015(Xem: 8123)
Nhân duyên đưa tôi đến với đạo Phật là từ ngày mẹ chồng lâm bệnh, sau khi bệnh viện trả về, mẹ được các thầy tụng kinh cầu nguyện nên ra đi rất nhẹ nhàng. Tang lễ và các tuần thất về sau cả nhà tôi đều tụng kinh niệm Phật cầu siêu cho mẹ, vào các ngày 14 và 30 thì lên chùa sám hối, nghe thầy trụ trì thuyết giảng. Từ đó tôi đã hiểu được Phật pháp và những điều hay lẽ phải cần thực hành trong đời sống hàng ngày. Sau này, mỗi tối tôi đều cố gắng thu xếp công việc để lên chùa tụng kinh, tôi thấy thân tâm mình an lạc vô cùng.
14/04/2015(Xem: 10836)
Chúng sinh kể cả nhân loại trên Tam Giới, trong cỏi Ta Bà, không nhất thiết chỉ có người quy y đạo Phật mới có Tri Kiến Phật. Mà ngay cả những người thậm chí không biết một tý gì về Phật giáo, không là Phật Tử, cũng đều tự có Phật Nhãn giống như nhửng Phật Tử và dĩ nhiên họ có Trí Tuệ Phật để thành Phật giống như mọi người mà không cần quy y tam bảo, làm Phật Tử hay cải đạo của chính mình. Đạo Phật không hề ép buộc ai quy y, không cản trở người quy y hoàn tục, cũng như tuyệt thông công (excomunicate) ai được. Đó là ưu điểm cũng là yếu điểm của đạo từ bi hỹ xã trong việc khuyết trương củng như bão vệ Phật Pháp.
13/04/2015(Xem: 7429)
Thư giãn ở bất kỳ cách nào cũng đều hiệu quả để đối trị đau đớn. Những người tập thư giãn có khả năng tốt hơn để chịu đựng đau đớn. VÀ họ thực sự cảm thấy đau đớn ít hơn. Nói cách khác, tập thư giãn có thể giảm đau một phần, và làm cho bạn chịu phần đau còn lại dễ dàng hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]