Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm Thiền

22/10/201508:51(Xem: 10364)
Tâm Thiền

TÂM THIỀN 
Ni Sư Ayya Khema 
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ

01


02

 


ayya-khemaNi Sư Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Bá Linh. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc Tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan.

Ni sư thọ đại giới ở Tích Lan vào năm 1979 và là một trong những người tiên phong trong việc tranh đấu cho ni giới. Ni Sư đã viết hơn 20 đầu sách về Thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Quyển nổi tiếng nhất là Being Nobody, Going Nowhere (Việt Dịch: Vô Ngã, Vô Ưu), được giải thưởng Christmas Humphreys Memorial Award. Các sách của Ni Sư được thể hiện bằng một sự hiểu biết sâu xa về các công phu tu hành, thành quả của việc hành thiền, là lời kêu gọi mọi người hãy đơn giản hoá cuộc sống và thanh lọc tâm trí bằng cách ứng dụng những lời Phật dạy.

Ni Sư Ayya Khema mất năm 1997 do bịnh ung thư.

 ngoi-thien

Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành.  Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.  Vậy thì có gì là khó đâu?  

Cái khó nằm trong việc người ta không toàn tâm toàn trí chuẩn bị cho nó.  Tâm ta, các giác quan, các cảm thọ chỉ quen ở nơi thị tứ, trong thế giới ta đang sống.  Nhưng thiền không thể hành ở nơi thị tứ.  Không thể nào.  Không có gì để mua, để bán hay trao đổi, dàn xếp trong thiền, nhưng thái độ của phần đông thiền sinh giữ nguyên như cũ và vậy là không thành công rồi.

Chúng ta cần kiên nhẫn với bản thân.  Cần có thời gian trước khi chúng ta có thể biến thiền thành một trạng thái tâm, có mặt trong mọi lúc vì chuyện thời gian không còn quan trọng nữa.  Thị tứ không chỉ dành cho buôn bán.  Nó bao gồm tất cả mọi thứ có thể được làm trên đời này: tất cả mọi liên kết, tư tưởng, hy vọng, ký ức, tất cả mọi phản kháng, chống đối, tất cả mọi phản ứng của chúng ta.

Trong thiền có thể có những giây phút thoáng chốc mà ta thấy định dường như trong tầm tay, nhưng không thể với tới.  Nó luôn vượt thoát và tâm lại trở về ngay nơi nó xuất phát.  Để thay đổi điều đó, ta phải quyết tâm biến cuộc sống của mình thành cuộc sống thiền; điều đó không có nghĩa là ta phải hành thiền từ sáng đến tối.  Tôi chắc rằng không ai có thể làm thế.  Và nó cũng không có nghĩa là ta không thể hoàn thành các bổn phận, các trách nhiệm của mình, vì chúng cũng quan trọng và cần thiết cho ta.  

 

Nhưng điều đó có nghĩa là chúng ta phải quan sát bản thân thật kỹ càng trong mọi hành động hay phản ứng để chắc chắn rằng mọi thứ đều diễn ra trong ánh sáng của Pháp –ánh sáng của chân lý.  Điều này ứng dụng vào những thứ nhỏ nhặt nhất như là thực phẩm ta dùng, những gì ta lắng nghe hay nói tới.  Chỉ như thế thì tâm mới có thể ở trong tư thế sẵn sàng với chất lượng của thiền khi ngồi xuống gối.  Có nghĩa là dầu chúng ta đang trong trạng thái nào, ta cũng soi rọi vào bên trong.  Không có nghĩa là ta không thể tiếp xúc, chuyện trò với ai, nhưng ta phải xem xét mình đang nói điều gì.

Đó không phải là điều dễ làm vì tâm thường quên lãng.  Nhưng ta phải nhận ra được sự chểnh mãng đó.  Nếu không thì ta đang đi lệch ra khỏi chánh niệm và sự quan sát nội tâm, ta chưa đặt chân được đến con đường thiền.  Nếu tâm có được tánh Pháp ở bên trong, thì việc hành thiền mới mong có kết quả.

Càng biết Pháp, ta càng có thể gìn giữ xem mình có thể tuân theo các quy luật không.  Nhưng nếu ta có thất bại thì không có sự khiển trách hay hình phạt nào đi kèm.  Tuy nhiên, ít ra ta cũng phải biết các quy tắc và biết mình đã phạm sai lầm ở chỗ nào.  Sau đó ta sẽ tu tập để tiến đến gần hơn với thực tại tuyệt đối, cho đến một ngày chúng ta thực sự là Pháp.

Có sự khác biệt giữa kẻ biết và người thực hành.  Kẻ biết có thể hiểu ngữ văn và lý thuyết nhưng người thực hành biết được một điều, đó là trở thành chân lý.  Ngôn ngữ là những phương tiện tiện ích không chỉ cho việc trao đổi, giao tiếp, mà còn để củng cố tư tưởng.  Đó là lý do tại sao ngôn từ không bao giờ hiển lộ chân lý, chỉ có sự trải nghiệm cá nhân mới có thể.  

 

Chúng ta đạt được kinh nghiệm qua việc nhận thức được điều gì đang xảy ra bên trong ta và tại sao nó lại như thế.  Điều này có nghĩa là ta tổng hợp cái ta quan sát với sự tìm hiểu tại sao ta nghĩ tưởng, nói năng hay hành động như ta đang làm.  Trừ khi chúng ta sử dụng tâm theo cách này, bằng không việc hành thiền của ta chỉ là chuyện làm lúc có, lúc không và sẽ vẫn luôn khó khăn, trở ngại.  Khi việc hành thiền không mang lại niềm vui, đa số sẳn lòng bỏ nó sang một bên.

Không có tâm thiền và sự trải nghiệm, Pháp không thể phát khởi trong lòng ta, vì Pháp không nằm trong ngôn từ.  Đức Phật có khả năng diễn đạt bằng ngôn từ những kinh nghiệm diễn ra bên trong Ngài vì lợi ích của chúng ta, để ban cho chúng ta những lời hướng dẫn.  Có nghĩa là Phật chỉ cho ta phương hướng nhưng ta phải tự mình bước đi.

Để có được tâm thiền, ta cần phát triển một số đức tính nội tại quan trọng.  Chúng ta đã có sẵn những hạt giống đó ở bên trong, nếu không, ta không thể vun trồng chúng.  Ví như nếu muốn hoa mọc trong vườn, mà ta không có hạt giống, thì dù ta có tưới bao nhiêu nước, bón bao nhiêu phân, cũng không có hoa mọc lên.  Việc tưới tẩm và bón phân cho tâm được làm trong lúc hành thiền.  Việc nhổ cỏ phải làm trong sinh hoạt hằng ngày. 

 

Trong bất cứ khu vườn nào, cỏ dường như luôn mọc nhanh hơn hoa.  Để bứng tận gốc rể cỏ, ta cần rất nhiều công sức, nhưng cắt ngắn cỏ thì không khó lắm.  Khi cỏ bị cắt đi, cắt lại, dần dần chúng sẽ trở nên mềm yếu và lúc đó việc bứng rể chúng sẽ dễ dàng hơn.  Khi cắt và bứng rể cỏ, ta cần soi rọi lại bản thân cho kỹ, để biết đâu là cỏ, đâu là hoa.  Chúng ta cần phải cẩn trọng, vì ta không muốn bứng nhầm hoa mà để lại toàn cỏ dại.  Một khu vườn có quá nhiều cỏ dại không phải là thứ đáng ngắm nhìn chút nào.

Tâm trí con người thường chứa đựng cả hoa và cỏ.  Ta sinh ra mang theo mình ba gốc rể độc hại: tham, sân, si, và ba gốc rể thiện: độ lượng, từ bi và trí tuệ.  Vậy thì không có lý lắm sao khi ta phải diệt trừ ba loại rể độc là nguyên nhân của tất cả mọi vấn đề, mọi trải nghiệm và mọi hành động bất thiện của ta?

Nếu muốn diệt trừ ba loại rể độc này, ta phải quán sát xem chúng mọc ra gì.  Chúng là gốc ẩn dưới lòng đất, nhưng chắc chắn là chúng cũng đâm chồi lên khỏi mặt đất.  Chúng ta có thể nhìn thấy điều đó ngay nơi ta.  Thí dụ, do si mê, ta biểu lộ ra ngoài tánh tham, sân.  Có nhiều mức độ của tham, sân, nhưng vi tế nhất và thường gặp nhất là các phản ứng:  “Tôi thích,” “Tôi muốn,” “Tôi không thích,” và “Tôi không muốn”.

Phần đông nghĩ những phản ứng như thế là hoàn toàn bình thường, tuy nhiên đó chính là tham và sân.  Các gốc rể độc hại đã nẩy mầm dưới nhiều hình thức đến nỗi ta có đủ loại cỏ dại mọc lên.  Nếu quan sát một khu vườn có lẽ ta sẽ thấy ba mươi hay bốn mươi loại cỏ.  

 

Chúng ta cũng có thể có bấy nhiêu hay nhiều hơn thế nữa các tư tưởng hay xúc cảm bất thiện.  Chúng có những hiện tướng và uy lực khác nhau nhưng tất cả đều từ cùng các gốc rể độc hại sinh ra.  Vì chưa bứng tận được các gốc rể này, chúng ta phải giải quyết những gì hiện lên trên bề mặt.  

 

Khi ta vun trồng được các gốc rể thiện lành, chúng sẽ mạnh mẽ, cứng cáp nên cỏ không còn có đủ dưỡng chất để mọc thỏa thích.  Ngược lại, nếu ta để cỏ mọc đầy vườn, là ta đã tước đi dưỡng chất của các loài hoa, thay vì vun trồng chúng nhiều thêm.  Chính sự tu tập, tiến bộ trong đời sống hằng ngày, giúp ta có thể thiền định như là một trạng thái tự nhiên do tâm sinh.

Ở thời điểm khi ta cố gắng để chuyển từ tâm bình thường sang tâm thiền, là điều khó thực hiện nếu ta thực hành chưa được bao lâu.  Chúng ta chỉ có một tâm duy nhất và ta mang nó theo trong mọi hoạt động cũng như khi hành thiền.  Nếu ta mơ hồ biết rằng thiền có thể mang đến cho ta bình an, hạnh phúc, thì ta cần chắc chắn một điều là ta mang theo tâm thiền khi ngồi xuống chiếu thiền.  Thay đổi tâm lăng xăng, bận rộn sang bình yên, lắng đọng lúc đó quả là quá khó.

Trạng thái tâm mà ta cần phát triển trong thiền đã được đức Phật mô tả rõ ràng.  Hai đặc tính quan trọng đó là chánh niệm và các căn tĩnh lặng.  Sự chánh niệm nội tâm đôi khi được hoán đổi với chánh niệm ở bên ngoài vì trong một số trường hợp đó là một phần quan trọng trong việc thực hành.  Ta không thể chối bỏ việc thế giới quanh ta tác động đến ta như thế nào.

Chánh niệm bên ngoài có nghĩa là nhìn đối tưọng, thí dụ cái cây, trong cái nhìn hoàn toàn mới mẻ.  Không phải với những ý nghĩ thông thường như, “Ồ, cây đẹp quá,” hay “Ước gì cây này ở trong vườn nhà tôi,” mà là ý thức rằng có những lá xanh, những lá vàng trên cây, rằng có những cây đang lớn, đang cỗi đi hay đang chết.  Ta có thể minh chứng quá trình sinh, trưởng, rồi hoại diệt của tất cả mọi thứ quanh ta.  

 

Ta có thể hiểu được tánh tham rất rõ ràng khi quan sát loài kiến, muỗi, chó mèo.  Ta không nên nhìn chúng như một thứ phiền não, mà như là những người thầy của ta.  Kiến, muỗi và những con chó hay sủa là những người thầy không để cho chúng ta yên ổn cho đến khi nào ta đã học xong bài học.  Khi chúng ta có thể nhìn thấy tất cả mọi thứ trong ánh sáng của sự sinh, hoại, chết, tham, sân và si, là chúng ta đang nhìn vào gương soi tất cả sự sống quanh ta, như thế là ta có được Pháp đang trình diễn trước mắt.  Tất cả chúng ta đều có thể nhìn thấy chân lý trong Pháp, chỉ là chúng ta không quan tâm đủ mà thôi.

Chúng ta có thể sử dụng chánh niệm để thấy rằng mọi thứ hiện hữu đều bao gồm bốn yếu tố: đất, nước, gió, lửa; để rồi sau đó xét xem điều gì là khác biệt giữa ta và tất cả mọi thứ khác.  Khi ta xem việc thực hành là quan trọng và nhìn mọi thứ trong cuộc đời theo cách đó, thì ta sẽ tìm được chân lý quanh ta cũng như trong ta.  Không có gì khác hiện hữu nữa.

Điều này giúp ta có thể rời bỏ chốn thị tứ lại phía sau, nơi tâm nhảy từ thứ này sang thứ khác, chẳng có phút giây yên tĩnh.  Nó hoặc bất cần, ù lì hay ghét bỏ, tham lam.  Nhưng khi chúng ta thực sự nhìn sự vật như chúng là, ta tiến gần hơn đến những điều Phật dạy, vì lòng từ bi đối với tất cả mọi chúng sanh đang luân chuyển trong luân hồi, đắm chìm trong khổ đau này đến khổ đau khác.  Ngài dạy như thế, để các chúng sanh như chúng ta có thể thức tỉnh, trở về với chân lý.

Ta không nên tin hay không tin những gì ta được nghe, hay được đọc, mà phải tự mình trải nghiệm.  Nếu ta dốc cả tấm lòng vào việc thực hành này, ta sẽ thấy là nó thay đổi cách ta nhìn sự  sống, chết.  Dầu làm bất cứ việc gì ta cũng phải hết lòng.  Nếu ta lập gia đình mà không hết lòng vì nó, thì cuộc hôn nhân đó khó thể thành công.  Sự tu tập, thực hành Pháp nửa vời cũng mang đến những hiểu lầm tai hại.  Sự hết lòng cốt yếu là tận tụy với một tâm vượt lên trên những suy tưởng và hoạt động hằng ngày.

Một đặc tính nữa của chánh niệm, là sự hiểu biết rõ ràng.  Chánh niệm là chỉ biết, mà không có sự phân biệt.  Chánh niệm không phán đoán mà chỉ hoàn toàn chú tâm.  Để có sự hiểu biết rõ ràng cần xem xét bốn khía cạnh.  Đầu tiên là tự hỏi: “Mục đích của sự suy tư, nói năng hay hành động của tôi là gì?” Ý nghĩ, lời nói và hành động là ba cánh cửa của ta.  Thứ đến là: “Tôi có sử dụng phương tiện thiện xảo nhất cho mục đích của mình?”  Điều đó cần có trí tuệ và phán đoán.  Thứ ba là: “Các phương tiện này có thuận theo Pháp?”  Đó là biết phân biệt giữa thiện, ác.  

 

Quá trình suy tư cần sự chú tâm của ta trước tiên, vì lời nói và hành động sẽ đi theo sau đó.  Đôi khi người ta nghĩ rằng mục đích sẽ biện minh cho phương tiện. Không thể như thế được.  Cả phương tiện và mục đích đều phải thuận theo Pháp.  Bước thứ tư là xét xem mục đích của ta có được hoàn mãn, nếu không, tại sao không.

Nếu chúng ta sống với những câu hỏi này trong tâm, ta sẽ chậm lại, là điều rất hữu ích khi hành động, phản ứng.  Không phải là nhờ không hành động, đó không phải là giải pháp, nhưng do nhờ chất lượng thiền trong tâm, đã quán sát xem ta đang làm gì.  Khi sử dụng chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng, chúng ta phải dành thời gian để quán xét.  Sự kiểm tra đó giúp ta tránh lỗi lầm. Suy nghĩ sai lầm tạo ra hiểm họa gây nghiệp xấu, đẩy ta xa rời chân lý để rơi vào trạng thái tâm mê mờ.  Pháp ngắn gọn, đơn giản và trực chỉ.  Tâm phải thuần khiết mới có thể trụ vào đó.  Nếu không, ta sẽ thấy mình xa rời Pháp mãi.

Chánh niệm bên ngoài cũng có thể giúp ta vươn tới với người khác, nhưng ta cần phải rất thận trọng.  Gặp gỡ và quen biết người khác đôi khi dẫn tới những phán đoán tiêu cực.  Nếu ta thực hành chánh niệm bên ngoài đến với người khác, ta phải ý thức rằng phán đoán người khác là tạo ra nghiệp xấu.  Ta có thể chú tâm với tâm từ.  Quan sát người khác là một trong những thú tiêu khiển phổ biến nhất nhưng thường được thực hiện với mục đích là tìm lỗi người.  

 

Tất cả mọi chúng sanh chưa giác ngộ đều có lỗi lầm; ngay với những bậc cao đạo như các vị bất lai cũng còn phải diệt trừ năm kiết sử.  Còn nói gì đến những kẻ phàm phu tục tử như chúng ta?  Sử dụng người khác như tấm gương soi cho chúng ta rất hữu ích vì chúng phản ảnh bản thân chúng ta.  Ta chỉ có thể nhìn thấy ở kẻ khác những gì đã sẳn có trong ta.  Ngoài ra ta không thể nhìn thấy gì khác.

Nếu ngoài chánh niệm, ta còn có sự hiểu biết rõ ràng và quán xét mục đích cũng như các phương tiện thiện xão, thì ta sẽ loại bỏ được nhiều lo âu, sầu khổ.  Ta sẽ phát triển một sự ý thức khiến mỗi phút giây, mỗi ngày của ta sẽ là một sự khám phá.  Đa số cảm thấy ù lì hay nặng nề.  Họ có quá nhiều hay quá ít chuyện để làm; không đủ tiền để làm chuyện họ thích hay lăng xăng chộn rộn tìm việc gì làm để được bận rộn.  

 

Ai cũng muốn trốn tránh những hoàn cảnh không thoải mái, nhưng phương cách trốn tránh mà họ chọn lựa không mang lại niềm vui nội tại.  Tuy nhiên với chánh niệm và sự hiểu biết rõ ràng, chỉ cần quan sát một cái cây cũng tràn đầy thú vị.  Nó mang lại một cái nhìn mới cho cuộc sống của ta, một tâm phấn khích, giúp ta nắm bắt được cái đồng nhất, thay vì những giới hạn của gia đình, công việc, niềm hy vọng và những giấc mơ của riêng ta.  

 

Qua đó ta có thể phát triển, vì ta cảm thấy đầy hứng thú với những gì ta thấy quanh ta, trong ta, và muốn khám phá thêm nữa.  Không còn tâm “của tôi,” thân “của tôi,” cây “của tôi,” mà chỉ là những biểu hiện quanh ta, để mang lại cho ta một học đường đầy thú vị, thách thức mà ai cũng có thể khám phá ra.  Chánh niệm của ta càng phát triển, ta càng hứng thú với học đường này.

Để phát triển tâm thiền, ta cũng cần thanh tịnh các căn.  Ta không cần phải chối bỏ các căn -một việc làm dại khờ, nhưng nhìn chúng như chúng là. Quỷ ma vương rù quến ta không phải là kẻ có đuôi dài, lưỡi đỏ, mà chính là các căn của ta.  Ta ít để ý xem chúng đã làm gì khi chúng lôi ta đi từ cảnh đẹp đến âm thanh quyến rủ, rồi lại trở về với cảnh, với âm thanh, với suy tưởng.  Không thể được yên!  Nỗ lực không ngừng của ta là để nắm bắt được dù chỉ giây phút khoái lạc.

Sự xúc chạm của giác quan phải rất chóng váng, vì nếu không nó sẽ trở thành một nỗi khổ (dukkha)lớn.  Giả dụ, chúng ta được mời một bữa ăn thật ngon miệng, nên ta nói với chủ nhà: “Thật là một bữa ăn ngon, tôi rất vừa miệng”.  Chủ nhà trả lời: “Tôi còn nhiều món lắm, hãy nán lại ăn thêm hai hay ba tiếng nữa cũng được”. Nếu làm theo, thân ta không chỉ lâm bệnh mà tâm ta cũng chán ngán.  Một bữa ăn có thể kéo dài khoảng hai mươi hay nhiều lắm là ba mươi phút.  Mỗi vị xúc chỉ kéo dài khoảng một giây, sau đó ta phải nhai và nuốt.  Nếu ngậm thức ăn trong miệng lâu hơn thế, nó sẽ không còn ngon.


Giả dụ, ta cảm thấy nóng, nên đi tắm.  Ta nói với người bạn đợi bên ngoài: “Tôi thấy khỏe hơn rồi, nước mát lạnh dễ chịu quá”.  Người bạn sẽ nói: “Nước lạnh thì thiếu gì, bạn tắm thêm năm, sáu tiếng nữa cũng được”.  Nếu làm theo, ta sẽ không còn dễ chịu nữa mà trở thành khổ.  Vì ta chỉ có thể chịu đựng tắm nước lạnh nhiều lắm là trong mười hay hai mươi phút.

Bất cứ điều gì mà kéo dài quá sức cũng tạo ra khổ.  Mọi xúc cảm đều chóng qua, vì đó là bản chất của chúng.  Đối với cảnh xúc cũng thế, mắt ta không ngừng nhấp nháy.  Chúng ta còn không thể giữ yên mắt lâu một chỗ để tìm kiếm vật gì đó.  Ta có thể ngắm nhìn một bức tranh đẹp một lúc nào đó và thực sự thích nó.  Nếu ai đó nói: “Bạn cứ ở đây, ngắm bức tranh này trong bốn, năm tiếng nữa, bảo tàng viện chưa tới giờ đóng cửa đâu”.  Không ai có thể làm điều đó.  

 

Ta không thể ngắm nhìn vật gì đó trong một thời gian lâu, mà không cảm thấy nản, đánh mất ý thức hay cảm thấy bù ngủ.  Những xúc chạm của các giác quan không chỉ có giới hạn vì chúng thiếu khả năng mang lại sự thỏa mãn mà chúng thực ra chỉ là những gợn sóng đến, rồi đi.  Nếu chăm chú lắng nghe âm nhạc, ta cũng chỉ thưởng thức được trong vài giờ, sau đó ta sẽ không chịu đựng nổi những âm thanh đó.  Các xúc chạm giác quan phản chiếu chỉ giây phút thoải mái, chúng không có cản bản thực sự.  Chính Ma vương đó không ngừng dẫn ta đi lạc lối.

Có một câu chuyện nổi tiếng về một vị sư trong thời đức Phật còn tại thế, liên quan đến sự tột cùng của việc rèn luyện các giác quan: Một cặp vợ chồng cãi nhau dữ dội, người vợ quyết định bỏ nhà đi.  Bà ta mặc lên người mấy lớp áo sa-ri tốt nhất, cái này chồng lên cái kia, đeo tất cả đồ trang sức bằng vàng, rồi ra đi.  Người chồng sau đó hối hận vì đã để vợ ra đi, nên chạy theo.  Anh ta chạy nơi này, nơi kia, nhưng không tìm ra vợ.  Cuối cùng anh ta gặp một vị sư đang đi trên đường, anh hỏi vị sư xem có thấy một phụ nữ mặc sa-ri đỏ, tóc đen dài, đeo nhiều trang sức ở cổ và tay.  Vị sư trả lời: “Tôi thấy có một hàm răng đi ngang qua”.

Vị sư không hề chú ý tới người phụ nữ tóc đen, áo sa-ri đỏ, đeo nhiều trang sức, mà chỉ biết rằng có một con người với một hàm răng đi ngang qua.  Ông đã làm chủ các căn của mình đến độ đối tượng thị giác không còn khiến ông phản ứng.  Người bình thường khi thấy một người phụ nữ đẹp, tóc đen dài, áo sa-ri đỏ, đeo nhiều nữ trang, đang chạy điên cuồng trên đường phố, có thể bị lôi cuốn để chạy theo cô ta.  Một hàm răng đi ngang qua, thì khó tạo ra được ước muốn nào.  Đó là thanh tịnh các căn.

Nếu gặp một con rắn, nó không phải là đối tưọng của sự sân hận, hay hủy diệt, mà chỉ là một chúng sanh vô tình đến trước mặt ta.  Chỉ có thế.  Không cần làm gì hết, không cần phải phản ứng với nó.  Nếu ta nghĩ rằng con rắn đó có thể hại ta chết, thì dĩ nhiên là tâm ta chấn động, cũng như tâm nhà sư sẽ như thế, nếu ông nghĩ, “Ồ, đúng là một người đẹp”.

Nếu ta luôn canh giữ các giác quan của mình, thì điều này sẽ trở thành thói quen, không còn là việc khó khăn nữa.  Cuộc sống sẽ an bình hơn.  Thế giới quanh ta chứa đựng quá nhiều biến động.  Ở đâu cũng có nhiều màu sắc, nhiều hình dạng, đủ loại người và thiên nhiên vạn vẻ.  Mỗi giống cây có hàng trăm loại giống chiết.  Thiên nhiên vạn vẻ.  Hình dáng con người cũng khác biệt.  Nếu ta không kiềm giữ các giác quan của mình, sự khác biệt này sẽ lôi kéo ta đi từ kiếp sống này sang kiếp sống khác.  Có quá nhiều thứ để xem, để làm, để biết và để phản ứng theo.  Vì không thể chấm dứt tất cả những thứ này, tốt hơn hết chúng ta dừng lại và quay vào bên trong.

Tâm thiền có thể đạt được qua chánh niệm, sự hiểu biết rõ ràng và thanh tịnh các căn.  Ba khía cạnh này của việc thực hành cần được huân tập mỗi ngày trong cuộc sống.  Hòa bình và hòa hợp sẽ được thiết lập, và việc hành thiền của chúng ta cũng sẽ rộ nở.

Diệu Liên Lý Thu Linh
10/2015

(Chuyển ngữ theo MEDITATIVE MIND, là một trong mười bài Pháp thoại mà Ni Sư Ayya Khema đã giảng trong một khóa tu tại Trung Tâm Đào Tạo Tăng Sĩ Pelmadulla, Tích Lan, năm 1989, và đã được tổng hợp thành sách với tựa đề VISIBLE HERE AND NOW)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4549)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7380)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4781)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4890)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5342)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10310)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9133)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6432)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8836)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5007)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]