Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba Điều Nên Nhớ Trong Cuộc Sống

09/10/201521:47(Xem: 7200)
Ba Điều Nên Nhớ Trong Cuộc Sống
Ba Điều Nên Nhớ Trong Cuộc Sống
Thích Đạt Ma Phổ Giác
   
Chúng ta hãy kiểm lại ba điều. Một là mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ, không có gì quan trọng. Ba là tâm là ông chủ nhân của bao điều họa phúc. Ta thường nhớ và thấy như vậy thì sẽ dễ dàng tập trung vào việc tu học để chuyển hoá, gạn lọc tâm buồn thương, giận ghét thành tâm thanh tịnh, sáng suốt. Làm chủ được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc sống không thể hấp dẫn và lôi kéo ta được nữa.

Cũng như sức mạnh tâm linh của mỗi người chính là nội tâm thanh tịnh, sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Người Phật tử chân chính tu học cho đến thấy được lẽ thật thì đời sống mới được bình yên, hạnh phúc. Lúc nào chúng ta cũng nhớ rằng từ si mê, tham đắm thân này nên sinh ra tham lam; từ tham không được rồi sinh ra nóng giận; nóng giận lâu ngày trở thành nội kết mà dẫn đến thù hằn, ghét bỏ. 

Ba thứ này là phiền não kiên cố chúng ta cần phải tìm cách chuyển hóa chứ không thể nuôi dưỡng, chất chứa chúng lâu dài. Chúng ta thử nhìn lại trên thế gian này từ người giàu cho tới kẻ nghèo có ai sống mà không có đau khổ hoặc vui vẻ hết.

Mỗi người đều có nỗi khổ riêng; có người khổ vì thiếu thốn đói khát; có người khổ vì không cha không mẹ, không gia đình người thân; có người tuy giàu nhưng cũng khổ vì gia đình không hạnh phúc. Chúng ta phải dám nhìn vào sự thật và luôn nhớ mạng sống này chỉ trong hơi thở thì sẽ bớt tham lam, ích kỷ. Khi thấy thân này nhơ nhớp, không trong sạch thì bớt kiêu căng, ngã mạn; thấy rõ bản chất nó là vô thường nên dần hồi phá được chấp ngã về thân.

Chúng ta muốn chuyển hoá, gạn lọc làm cho tinh thần được trong sáng, tốt đẹp thì phải biết xem xét lại chính mình từ những tâm niệm đang dấy khởi thầm kín. Hầu như ai cũng biết tham lam, nóng giận, si mê là xấu ác nhưng bỏ không được vì thói quen chất chứa nhiều đời.
Con người thật là mâu thuẫn! Lúc nào cũng mong cho mình được sáng suốt, thanh tịnh mà những thói xấu không chịu bỏ.

Người tham lam có 1 triệu thì muốn 2 triệu, có 2 triệu lại muốn 3 triệu, có 3 triệu thì lại muốn nhiều hơn mà không bao giờ biết dừng lại. Nói đến việc tu để tâm được thanh tịnh, sáng suốt thì nhiều người bảo ăn chay, lạy Phật nhiều là tu. Ăn chay chỉ là bước đầu thể hiện lòng từ bi đối với các loài vật, lạy Phật cũng thuộc về phần thể xác nhưng biết cách lạy sẽ thực sự có nhiều lợi ích.

Lạy Phật là cách thức tu trong hoạt động vì thân này luôn phải làm việc, ăn uống, tắm rửa, đi tiểu đi đại nên cách thức tu lạy Phật có giá trị thiết thực về hai mặt thể xác lẫn tinh thần. Toàn thân năm vóc lễ lạy, đứng lên quỳ xuống, thân tâm cung kính nhất như làm cho thân khoẻ, tâm an. 


Tu bằng hình thức tạo phước, tạo duyên, từ từ buông xả được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Hoặc ta tu bằng cách lọc bỏ các vọng tưởng cho tâm được trong sáng, thanh tịnh.

Thân và tâm không tách rời nhau và luôn cùng nhau hoạt động, nếu tâm biết tỉnh giác thì thân miệng làm các việc tốt mà cảm nhận được niềm vui. Ta biết đóng góp vật chất thì có phước nhưng tâm còn phiền não, vọng động thì vẫn còn luân hồi sanh tử. Vì lòng tham muốn của con người không bao giờ biết thỏa mãn nên tâm cứ luôn rong rủi tìm cầu, chạy theo ngũ dục không bao giờ biết chán, biết đủ.

Người ta nói “ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn”, nhưng xét lại đời sống con người từ khi sinh ra, thì tất cả mọi sinh hoạt trong xã hội đều do chạy theo ăn-uống-mặc-ở và các tiện nghi sinh sống khác… Người nghèo thì tìm cách tranh thủ làm lụng để có cái ăn cái mặc. Người đã dư ăn dư mặc thì muốn kiếm thêm để tích trữ, dành dụm cho con cháu mai sau.

Khi đã có đầy đủ vật chất thì con người lại muốn tranh thủ để có danh vọng, địa vị, kẻ hầu người hạ, ăn trên ngồi trước, được mọi người tôn trọng kính nể. Rốt cuộc, cả một đời lao đao, lận đận chạy theo ngũ dục thế gian rồi cuối cùng đi đến già-bệnh-chết và mang theo chỉ hai bàn tay trắng. Cha mẹ, vợ con, anh chị em, thân bằng quyến thuộc, cũng không ai dám phát tâm đi theo. Quả thật, lòng tham con người không bao giờ biết chán, biết dừng và muốn ít biết đủ. 

Từ si mê mới cho rằng đời sống dài cả trăm năm nên lo tạo dựng sự nghiệp, gia đình, công danh, tài sản, của cải để con cháu đời sau hưởng đến khi tắt thở cũng chưa chịu dừng nghĩ. Vì vậy mà cả một đời mấy chục năm trời, ta cứ lao vào hình thức vật chất mà không nghĩ đến tâm tư của mình trong sáng hay tối tăm; không màng đến việc trau dồi nhân cách, đạo đức mà chỉ đuổi theo những cái tạm bợ, phù phiếm bên ngoài.

Đời này tạo lập, xây dựng mà nếu lỡ phải chết giữa chừng thì khi ra đi tâm tiếc nuối dấy khởi, ta không cam tâm nên mới phải tái sinh, có khi phải đọa làm chó giữ nhà để giữ của. Thế cho nên, Phật nói si mê là gốc của luân hồi sống chết không có ngày cùng, chúng sanh phải thăng lên lộn xuống mãi trong ba cõi sáu đường gốc cũng từ si mê mà ra.


Ta đam mê sự sống, danh vọng, sắc đẹp, quyền lực, tiền bạc, của cải. Ta thường sống với những ảo tưởng, nhớ nghĩ về quá khứ hoặc mơ mộng đến tương lai. Chính đó là gốc rễ của si mê. Cho nên, chúng ta phải thường xuyên quán chiếu mới có thể biết rõ mạng sống vô thường, thân này không thật có. Biết thân này không có giá trị chân thật thì chúng ta không còn tham ái, luyến mến nó nữa. Được như vậy ta sẽ biết cách làm chủ thân tâm.

Tuy nhiên, chúng sinh can cường với bản tánh tham lam, ích kỷ mới tu có vài ba năm hoặc hai ba chục năm mà cứ đòi thành Phật; do đó, nghe ai nói tu ba tháng đến sáu tháng thành Phật liền, nên ham quá mới bán hết nhà cửa mà dâng cúng cho người đó. Tu một thời gian không có kết quả mới té ngửa ra tại mình si mê, đần độn nên đã “giao trứng cho ác” mà không biết.

Lời Phật dạy từ trước đến nay chính yếu tu là biết cách gạn lọc nội tâm; giống như một lu nước đục muốn nước được trong phải có thời gian gạn lọc, tuy thấy nước trong nhưng cặn bã vẫn còn dưới đáy lu, gặp duyên thì nước sẽ đục trở lại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/08/2010(Xem: 15497)
Nghe đài, đọc báo, xem sách “HOÀNG SA – TRƯỜNG SA” âm từ bốn chữ mà sao thấy nao lòng. Có lẽ tình yêu thương Tổ quốc, đã ăn sâu vào trong máu, trong xương. Dù chưa thấy Trường Sa, Hoàng Sa nhưng khi nghe bãi cát vàng dậy sóng càng muốn biết cho tường. Tôi ước ao được thấy Trường Sa, Hoàng Sa và đã thấy được Trường Sa, dù chưa hết, biết chưa khắp, nhưng đã tận mắt, đã đặt chân lên Trường Sa đảo chìm, đảo nổi, nhà giàn. Thấy gì, biết gì, nghe gì chỉ một chuyến đi 12 ngày tạm đủ cho một lão già 76 tuổi muốn đem hai chữ Hoàng Sa, Trường Sa vào hồn.
22/08/2010(Xem: 7250)
Khi có mặt trên cuộc đời này, tiếng gọi đầu tiên mà ta gọi đó là Mẹ, tình thương mà ta cảm nhận được trước nhất là tình của Mẹ, hơi ấm nồng nàn làm cho ta cảm thấy không lạnh lẽo giữa cuộc đời được toả ra từ lòng Mẹ, âm thanh mà ta nhận được khi chào đời là hai tiếng “con yêu” chất liệu nuôi lớn ta ngọt ngào dòng sữa mẹ như cam lộ thiên thần dâng cúng Phạm Thiên.
21/08/2010(Xem: 7392)
NHỮNG LỜI DẠY THỰC TIỄN CỦA ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA Tựasách : «108 perles de sagesse du Dalai-Lama pour parvenir à la sérénité» Nhàxuất bản: Presse de la Renaissance, Paris 2006. Do nữ ký giả Phật tử CathérineBarry tuyển chọn - Chuyển ngữ Pháp-Việt : HoangPhong
19/08/2010(Xem: 8740)
Tại Keelung, Đài Loan có một cửa hàng với cái tên là “Ngộ Duyên Hào”. Ông chủ Lâm vốn là một người rất tử tế, xung quanh khu vực ông sống có rất nhiều những cư dân đánh cá hay kiếm sống quanh đó.
09/08/2010(Xem: 8725)
Câu chuyện dưới đây thật xa xưa, có lẽđã xảy ra từ thời Trung cổ tại Âu châu và cả nhiều thế kỷ trước đó tại Trung đông.Tuy nhiên chúng ta cũng có thể khởi đầu câu chuyện với một sự kiện chính xác hơnxảy ra vào thế kỷ XVI khi tòa thánh La-mã phong thánh cho hai vị mang tên là Barlaamvà Joasaph, và chọn ngày 27 tháng 11 mỗi năm để làm ngày tưởng niệm họ. Riêng Chínhthống giáo (Orthodoxe) thì chọn ngày 26 tháng 8.
04/08/2010(Xem: 9134)
CáchTrợ Niệm Cho Người Khi Lâm Chung, HT. Tịnh Không, ThíchNhuận Nghi dịch
27/07/2010(Xem: 8722)
D.T. Suzuki (1870 -1966) thườngđược xem là một trong những vị thiền sư lớn nhất của thế kỷ XX. Thật ra thì rấtkhó hay không thể để chúng ta có thể đo lường được chiều sâu của sự giác ngộtrong tâm thức của các vị thiền sư, vì việc đó vượt ra khỏi khả năng của chúngta, và vì thế cũng rất khó hoặc không thể nào đánh giá họ được. Chúng ta chỉ cóthể dựa vào sự bén nhạy của lòng mình để ngưỡng mộ họ mà thôi.
19/07/2010(Xem: 7924)
Đất nước ta có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến, Phật giáo Viẹt Nam có bề dày lịch sử hơn hai ngàn năm hoằng pháp độ sanh. Kể từ ngày du nhập đến nay, với tinh thần khế lý, khế cơ, khế thời, Đạo Phật đã thực sự hoà nhập cùng với đà phát triển của đất nước và dân tộc. Trải qua bao cuộc biến thiên, Phật Giáo Việt Nam cũng thăng trầm theo những thời kỳ thịnh suy của dân tộc, nhưng không vì thế mà việc hướng dẫn các giới Phật tử tại gia bị lãng quên.
17/07/2010(Xem: 9399)
Phận làm người xuất gia, việc đi cúng dường như xuất hiện đồng thời với chí nguyện phụng Phật, độ sanh. Đi cúng là đi đến nhà cư sĩ, đơn giản thì để chứng minh, chú nguyện cho một sở cầu nào đó của họ. Phức tạp hơn là thực hiện một lễ nghi nào đó như cầu an, cầu siêu, an vị Phật hay cúng nhà mới v.v… Đi cúng là một hiện tượng mà xung quanh nó xuất hiện nhiều quan điểm, thái độ đánh giá. Với một vài vị xuất gia, việc đi cúng dường như không phải là trách vụ cơ bản của hàng xuất sĩ, và do vậy họ đã cực lực lên án, thậm chí là cười nhạo, đả phá. Trong khi đó có một số vị khác tận lực, và thậm chí chấp nhận buông bỏ việc tìm cầu tri thức, thời khóa tu tập … để toàn tâm đi cúng khắp nhân gian.
01/07/2010(Xem: 16070)
Ở làng quê Việt Nam ngày xưa, khi làm mùa vụ, người nông dân có thể nhờ vài người trong thôn xóm đến phụ giúp mà không phải trả tiền. Chỉ cần đến phiên bên kia làm mùa vụ, hay sửa sang nhà cửa, hoặc bất cứ công việc nặng nhọc nào đó, thì bên này sẽ qua phụ giúp lại. Cái đó gọi là vần công. Cách thức này thật hay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]