Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghiệp Theo Ta Như Bóng Với Hình

08/10/201509:21(Xem: 6973)
Nghiệp Theo Ta Như Bóng Với Hình
 
Nghiệp Theo Ta Như Bóng Với Hình
Thích Đạt Ma Phổ Giác

 

Chúng ta muốn được phước báo tốt, sống đời hiền thiện, đạo đức, thì phải cố gắng tu trong mọi hoàn cảnh, đừng chờ đến chùa rồi mới tu. Tu như vậy là không thực tế. Một tháng chúng ta đến chùa được mấy ngày? Không lẽ không đến chùa là không tu được hay sao?

 

Quý Phật tử hãy nên suy nghĩ chín chắn chỗ này. Tu chính là nền tảng vững chắc để xây dựng hạnh phúc gia đình và xã hội. Một giờ tu là một giờ hạnh phúc, một ngày tu là một ngày an lạc, giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.

 

Trong đời, ta thấy có người hay làm những việc xấu ác, bất thiện, bất nhân, bất nghĩa, mà họ vẫn khoẻ mạnh, giàu có, không gặp hoạn nạn, là do nhiều đời, nhiều  kiếp, họ đã gieo trồng quá nhiều nghiệp lành, tích luỹ nghiệp tốt của họ trong quá khứ còn nhiều, nên những nghiệp xấu ác họ đã gây trong đời hiện tại chưa đủ sức chi phối.

 

Có người thắc mắc cho rằng, tại sao có người suốt đời toàn làm điều ác, mà họ vẫn sống đầy đủ, giàu có, chẳng thiếu một thứ gì. Vậy luật nhân quả nghiệp báo có chuẩn xác và công bằng hay không? Trong kinh Phật dạy rất rõ ràng, “nếu làm thiện sẽ được quả báo vui, làm ác thì bị quả báo khổ”.

 

Bởi tích luỹ nghiệp và cận tử nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đối với người sắp lâm chung. Người làm ác mà vẫn sống phây phây là do tích luỹ nghiệp thiện lành của họ quá nhiều. Phật thường nói về nhân-duyên-quả, có nhân thì phải có duyên, đủ duyên thì chiêu cảm quả báo. Nhưng nhân quả có thể thay đổi được, nếu không chúng ta tu cũng tốn công, vô ích thôi.

 

Tu là mục đích chuyển khổ thành vui, chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ. Như khi xưa ta chưa biết tu nên hay hút thuốc, uống rượu; nay nhờ biết tu, nên mình không uống rượu, hút thuốc nữa, vậy không phải đã chuyển là gì. Bỏ thuốc, bỏ rượu là do ta bỏ, chứ đâu có ông thần linh thượng đế nào giúp cho mình làm được điều này.

 

Muốn được trọn vẹn đường tu, chúng ta phải thường xuyên sám hối, quyết tâm chừa bỏ lỗi lầm, phát nguyện đời đời kiếp kiếp đi theo con đường Phật đạo. Chúng ta phải phát nguyện mãnh mẽ và ý thức rằng, làm ác sẽ chịu quả báo khổ đau trong hiện tại và mai sau, nhờ vậy mình mới đủ sức vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

 

Phát nguyện để làm mới lại chính mình và tin sâu Tam bảo, giúp chúng ta có đủ niềm tin trên bước đường tu học. Mỗi khi gặp điều bất hạnh, ta biết đó là nghiệp xấu quá khứ còn rơi rớt lại, nên không thối chí, nản lòng, mà còn cố gắng nhiều hơn để vượt qua cạm bẫy cuộc đời. 

 

               Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,

               Đói đến thì ăn mệt ngủ liền,

               Trong nhà có báu, thôi tìm kiếm,

               Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.

 

Chúng ta hãy nên bắt chước ông vua Thiền sư Phật hoàng Trần Nhân Tông, xem ngai vàng như dép rách, chẳng màng đến vinh hoa phú quý, một lòng nhất tâm tu hành, buông xả quyền cao chức trọng, để sống đời trong sạch, giải thoát.

 

Thời Phật còn tại thế, vua Ma Ha Nam- con của Cam Lộ Phạm Vương, là em nhà chú bác với đức Phật, ông tu tại gia, giữ năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai. Một hôm, ông đến gặp đức Phật và bạch rằng, “bạch Thế Tôn, con giữ gìn năm giới, tu thập thiện, thọ bát quan trai thường xuyên như vậy, nếu chẳng may con bị chết bất đắc kỳ tử, sau khi chết, con sẽ tái sanh được chỗ tốt đẹp hay không?”

 

Đức Phật không trả lời mà hỏi lại ông, “như có một cây cổ thụ thân và cành nghiêng hẳn về một bên, vậy khi cưa gốc, cây đó sẽ ngã về bên nào?” Vua Ma Ha Nam trả lời, “dạ thưa Thế Tôn, cây sẽ ngã về phía đang nghiêng”. “Cũng vậy, bình thường nhà vua hay làm điều lành, giữ giới liên tục, không gián đoạn, khi gặp tai nạn bất thường, tuy có hơi bị khủng hoảng đôi chút, nhưng do nghiệp thiện tích luỹ quá nhiều, nên sẽ được sinh về cảnh giới an lành, nhà vua khỏi phải lo lắng, sợ hãi mà cứ yên tâm”.

 

Người tu hành chân chính phải biết tích luỹ nghiệp lành khi còn trẻ khoẻ, chứ không phải chờ đến tuổi già, sức yếu, rồi mới làm lành, lánh dữ, và tu hành, thì e rằng không còn kịp nữa. Tránh dữ, làm lành là phương pháp sống của người Phật tử, hễ khi có cơ hội và nhân duyên thì mình phát tâm làm ngay dù việc lớn hay nhỏ.

 

Cho nên, tu là phải chịu khó hành trì bền bỉ từ khi còn trẻ, ta chỉ làm một việc là kiểm soát chặt chẽ từ ý nghĩ cho đến lời nói và hành động cho được thuần nhất, không làm tổn hại cho mình và người.

 

Cận tử nghiệp đối vối việc tái sinh trong đời sau rất quan trọng. Một người trong đời đã làm nhiều việc thiện lành, tốt đẹp, nhưng đến lúc sắp lâm chung lại khởi lên tâm niệm xấu ác, hay oán giận ai, thì chưa chắc được sinh về cõi an lành. Ngược lại, ai trong đời lỡ tạo một vài nghiệp ác, đến lúc sắp lâm chung mà biết khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, người ấy có thể chuyển được nghiệp xấu và sanh về cảnh giới an lành. Bởi nghiệp không cố định, nên ta có thể chuyển hoá và thay đổi chúng.

 

Qua câu chuyện trên, đức Phật đã chỉ ra cho ta một bài học quý báu về tích luỹ nghiệp, chúng ta phải thường xuyên huân tập việc tốt bền bỉ, lâu dài. Lúc nào, ta cũng ý thức việc làm ác sẽ gây quả xấu cho mình trong hiện tại và mai sau, nên không dám lơ là, buông lung, mà luôn cố gắng tinh cần chuyển hóa chúng khi còn trong trứng nước, tu hành như vậy ta mới có thể làm chủ tâm mình trước lúc lâm chung.

 

Cận tử nghiệp có thể chuyển hoá được các nghiệp xấu ác ta đã gây tạo ra từ trước. Nếu trước đây, chúng ta đã từng làm những việc xấu ác, đến lúc gần chết mình biết hồi đầu chuyển hướng, khởi tâm niệm lành mạnh mẽ, nhờ tâm niệm đó, mình có thể được sanh về chỗ an vui, hạnh phúc.

 

Ngoài việc tích luỹ nghiệp lành, người Phật tử còn phải biết tu hạnh buông xả. Nghĩa là không chấp trước vào việc làm thiện lành của mình. Người chấp trước vào việc tốt mà mình đã làm thì dễ sanh tâm ngã mạn, lúc gặp duyên xấu không làm chủ được bản thân, hay bị người khác xúi giục làm điều xấu ác không cưỡng lại được, biết xấu mà vẫn làm, biết mà cố phạm, vì thói xấu đã được thuần thục.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5608)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6924)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4311)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9144)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5474)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5098)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5695)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6194)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5201)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]