Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình, Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa

03/10/201508:11(Xem: 7901)
Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình, Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa

Những Bài Ca Về Tâm Vô Tham Đối Với Gia Đình, Bạn Hữu Và Tài Sản Của Milarepa


Geshe Ngawang Dhargyey
từ bản ghi chép của Alexander Berzin
Pauline Yeats hiệu đính, tháng Sáu, 2008
từ bài miệng của Sharpa Rinpoche
Dharamsla, Ấn Độ, 1974
Lozang Ngodrub chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

www.berzinarchives.com

 

Milarepa có một người chị cứ khăng khăng bảo ngài đi cưới vợ, xây nhà và sinh con, nhưng ngài đã bỏ nhà ra đi và gặp vị thầy của mình là Marpa. Khi chị của ngài biết rằng Marpa đã lập gia đình, bà càng ép buộc Milarepa hơn nữa.

- Tại sao em không làm như thầy của em? Bà gặng hỏi.

- Nếu con chồn tru nơi sư tử gầm thì đó là một điều sai lầm.

Sau đó, Milarepa đến thăm một cặp vợ chồng không thể có con, dù họ đã cố gắng hết sức. Họ muốn nhận ngài làm con nuôi, nhưng ngài từ chối. “Cháu không thể nào sống ở đây để làm con nuôi của hai bác, nhưng hãy cho cháu biết, hai bác gặp khó khăn gì?” Hai ông bà phàn nàn là không có ai chăm sóc khi họ về già.

Milarepa ngẫm nghĩ rồi trả lời:

- Khi một người con trai và một người con gái mới gặp nhau, họ nghĩ rằng người kia đẹp như chư thiên, và không ngừng ngắm nhìn nhau. Khi đã quen biết một thời gian thì họ bắt đầu nhìn nhau một cách bỉ ổi, rồi cuối cùng họ đánh nhau. Nếu người này níu tóc người kia thì người kia sẽ tóm cổ người này. Rồi người này dọa đập người kia một gậy, và người kia sẽ đánh trả bằng cái muỗng gỗ.

- Đệ tử của cháu là Rechungpa đã có một kinh nghiệm tương tự như vậy. Rechungpa đã rời bỏ vị thầy của anh ta và hoàn trả giới nguyện để cưới một người vợ rất độc đoán. Một ngày kia, anh ta gặp một người ăn mày trên đường, van xin anh cho ông ta sợi dây chuyền ngọc lam. Rechungpa đưa sợi dây chuyền cho người ăn mày, nhưng khi về đến nhà, vợ anh ta hỏi chuyện gì đã xảy ra cho sợi dây chuyền ngọc lam. Rechungpa kể chuyện cho vợ nghe và vợ anh quá giận dữ nên đã đánh anh liên tục bằng cái vá trong nồi xúp mì tugpa. Rechungpa càu nhàu rằng, “Ta đã từng nhận nhiều lễ quán đảnh trong đời, nhưng chưa bao giờ nhận lễ quán đảnh bằng cái vá. Ta đã mang nhiều trang sức, nhưng chưa bao giờ đeo mì tugpa trên người!”

- Một thời gian sau đó, cháu ban một lễ quán đảnh và Rechungpa đã đến tham dự. Cháu đưa một chuỗi ngọc lam ra và nói rằng, “Nếu muốn nhận lễ quán đảnh thì con phải dâng lên thứ này”, và biết rõ là Rechungpa đã đem cho sợi dây chuyền ngọc lam của anh ta rồi! Bác thấy đó, những cặp vợ chồng gây gỗ với nhau. Khi họ già nua và rụng răng, họ nhìn giống như bò đực và bò cái. Cuối cùng, họ nhìn giống như yêu tinh và ma quỷ! Vì vậy nên cảm ơn hai bác, nhưng cháu sẽ không nhận lời làm con nuôi của hai bác.”.

Người chồng van nài, một mực nói là ông phải có một đứa con trai để chăm sóc cho ông và vợ ông, đem lại cho họ sự an toàn. “Nếu cháu chịu làm con trai nhà ta, chúng ta sẽ chuẩn bị một đám cưới cho cháu, và cháu có thể có con cái để lo lắng cho cháu sau này.”, nhưng Milarepa từ chối.

- Có con thì rất tốt. Khi mới có con, chúng nhìn thật đẹp, giống như con cái của chư Thiên, và chúng đem lại biết bao hạnh phúc! Nhưng dần dần, khi lớn lên, chúng đòi hỏi đủ thứ. Chúng làm như cha mẹ đã mắc nợ chúng, luôn luôn làm phiền và nhắc nhở cha mẹ phải trả nợ cho chúng. Cuối cùng thì con trai sẽ đem người ngoài như bạn bè, bạn gái về nhà để cha mẹ nuôi nấng, rồi chúng sẽ nắm quyền trong gia đình và dần dần đuổi cha mẹ ra khỏi nhà của họ.

- Nếu cha mẹ nhẹ nhàng hỏi chúng điều gì, chúng sẽ nạt lại. Chúng sẽ xem thường cha mẹ khi họ già nua và xấu hổ vì cha mẹ, ngay cả đối với mẹ của chúng. Rồi chúng hoàn toàn thay đổi so với ngày xưa, khi chúng là những công tử nhỏ bé ngọt ngào. Chúng không bao giờ làm cho cha mẹ an tâm, chẳng bao giờ đền đáp lòng tốt của họ. Chúng luôn luôn làm những điều trái ngược với những gì cha mẹ muốn chúng làm. Tóc tai lôi thôi, quần áo kỳ dị và giày dép lạ lùng.

- Nếu một đứa con trai tạo ra bấy nhiêu rắc rối thì chúng ta muốn một đứa con gái. Người vợ đề nghị, vì vẫn chưa muốn bỏ cuộc.

Milarepa nhẫn nại trả lời:

- Ban đầu, con gái cũng giống như con trai, rất ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng cuối cùng, nó cũng trở nên hung bạo và chiếm đoạt tài sản, đòi hỏi và tham muốn không cùng. Thay vì đem của cải về cho gia đình thì chúng xin càng nhiều tiền càng tốt để tiêu xài. Chúng nịnh hót cha và ăn cắp đồ của mẹ, lấy mà không xin phép. Chúng không bao giờ biết ơn, xem việc cha mẹ cung phụng những gì chúng muốn là bổn phận của họ.

- Chúng không ngừng làm cho cha mẹ lo lắng và thất vọng, đi chơi với bạn trai hư hỏng, về nhà muộn.... Cách trả ơn cha mẹ là vênh mặt cáu kỉnh như một con yeti hung dữ. Rồi chúng rời khỏi gia đình để tạo lập một gia đình khác, đem theo của cải của cha mẹ càng nhiều càng tốt. Chúng chỉ trở về nhà để viếng thăm cha mẹ khi gặp khó khăn.

- Vì vậy, cháu đã vĩnh viễn từ bỏ mọi nỗi khổ không cần thiết ấy. Cháu không muốn có bất cứ đứa con gái hay con trai nào. Milarepa nói.

Cặp vợ chồng vẫn chưa cam lòng, nên tiếp tục nói, “ Vậy còn bạn bè thì sao? Nếu không có ai gần gũi như bà con hay bạn bè thì thật là buồn thảm!”.

- Họ cũng vậy thôi! Khi mới gặp thì họ đều cười vui, rất dễ chịu, làm bác rất vui vẻ.  Rồi họ kể bao nhiêu chuyện, tin tức và tán gẫu. Họ mời bác đi đây đó và bác không còn chút thì giờ riêng. Rồi bác phải trở về nhà để thăm tất cả bà con của họ, và những người này sẽ kể mọi tin tức cho bác nghe, bác không được yên ổn chút nào hết. Sau đó, bác trao đổi quà cáp và thức ăn, chuẩn bị các món ăn với họ. Cuối cùng thì mọi người bắt đầu tranh đua với nhau. Người này muốn biết người kia đang làm gì, họ ganh tỵ với nhau và sự tranh đua phát sinh.

- Nếu chưa bao giờ gần gũi ai thì sẽ không có sự bất đồng, nhưng nếu có bạn bè thì sẽ dễ có sự tranh cãi. Khi nói chuyện phiếm, người ta thường bàn tán về những người gần gũi với họ nhất. Nếu mình sống gần ai, mình sẽ luôn tìm ra lỗi lầm nơi họ. Những người không phải là bạn bè thì sẽ để cho bác yên, còn bạn bè thì tới thăm bác rồi đi bàn tán về những lỗi lầm họ thấy nơi bác. Cháu không muốn có người thân và bạn bè muốn lợi dụng thời gian hạnh phúc của mình và không muốn chia sẻ những khoảnh khắc đau buồn với họ. Milarepa nói.

Không nản lòng, hai vợ chồng mời mọc lần cuối cùng. “Chúng ta hiểu, cháu không muốn có bạn bè, con cái hay gia đình, nhưng chúng ta có nhiều của cải. Nếu cháu ở đây với chúng ta thì cháu có thể thừa hưởng tài sản khi chúng ta qua đời.”.

Milarepa lắc đầu và nói rằng, “Điều này cũng vô dụng. Cháu sẽ không hy sinh mục tiêu thành tựu giác ngộ vì tất cả chúng sanh để có được tài sản của hai bác.

- Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ. Khi đã có tài sản thì ta lại muốn có nhiều hơn nữa. Khi mới tích lũy của cải, nó cho ta niềm vui và khiến cho người khác ganh tỵ. Sau đó, khi có nhiều của cải hơn thì ta sẽ trở nên keo kiệt hơn, ngần ngại hơn khi phải chia sẻ nó. Chính việc tích lũy của cải sẽ đem lại kẻ thù cho ta. Gia đình và bạn bè đổ xô đến với ta để hưởng được điều gì, nhưng vẫn trở thành kẻ thù, vì họ quá ganh tỵ.

- Cuối cùng, khi về già thì người khác lại hưởng thụ những thứ bác đã tích lũy bấy lâu nay. Người ta bị ăn trộm giết vì tài sản của họ. Của cải có thể giết hại bác. Tích lũy của cải giống như một bàn đạp dẫn đến những tái sanh thấp hơn. Vì vậy nên cháu rất cảm ơn, nhưng cháu phải khước từ lòng hảo tâm trao tặng tài sản của hai bác. Đó là một sự quyến rũ, như trò chơi của ma quỷ, nhưng cuộc gặp gỡ của chúng ta có ích lợi và trong tương lai, chắc chắn là cháu sẽ giúp hai bác đến một cõi Phật. Cháu sẽ cầu nguyện cho hai bác, vì hai bác đã muốn tặng cho cháu quá nhiều thứ.

Cuối cùng thì cặp vợ chồng đã được thuyết phục về sự bất lợi của tất cả những điều này. Họ hết lòng với Milarepa và đem cúng dường tài sản. Họ thọ nhận giáo huấn với ngài và cuối cùng đã đạt được niềm tin và nội quán trước khi lìa đời.

Đây là những giáo huấn mà Milarepa đã ban về tâm vô tham đối với con cái, bạn hữu, người thân và của cải, và cách sống tự tại với giáo pháp.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5549)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5465)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6868)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4251)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9075)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5416)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5039)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5625)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6129)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5150)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]