Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Mươi Sáu Lỗi Lầm Ảnh Hưởng Việc Tu Học và Hành Trì

03/10/201508:04(Xem: 7841)
Bốn Mươi Sáu Lỗi Lầm Ảnh Hưởng Việc Tu Học và Hành Trì

Bốn Mươi Sáu Lỗi Lầm Ảnh Hưởng Việc Tu Học và Hành Trì


Alexander Berzin
Tháng Ba, 2006
Lozang Ngodrub dịch; Võ Thư Ngân hiệu đính

www.berzinarchives.com

 

Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon). Những lỗi lầm này có thể xảy ra trong tâm thức của một Bồ tát thánh nhân từ sơ địa cho đến thất địa, như đã được trình bày theo hệ thống trong sơ đồ của trường phái Y Tự Khởi (Svatantrika). Mặc dù chúng đã được trình bày theo hệ thống bằng cách nghiên cứu văn học Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajnaparamita, Far-reaching Discriminating Awareness, Perfection of Wisdom), các lỗi lầm này cũng có thể liên quan đến những khía cạnh khác trong việc tu học và hành trì.

Hai Mươi Lỗi Lầm Chỉ Liên Quan Đến Đệ Tử

Mười Hai Lỗi Lầm Thông Thường Liên Quan Đến Đệ Tử

(1) Mất quá nhiều thời giờ và gặp nhiều khó khăn trong việc thấu hiểu Bát Nhã Ba La Mật Đa.

(2) Học hỏi rất nhanh và kiêu hãnh về điều này, nhưng lại không học hỏi thêm chi tiết.

(3) Khi ghi chép giáo huấn Bát Nhã Ba La Mật Đa hay vẽ một bức thangka thì gặp những chướng ngại về thể chất như ngáp dài, cười cợt, đùa giỡn hay chế giễu về điều này.

(4) Khi ghi chép giáo huấn Bát Nhã Ba La Mật Đa thì gặp chướng ngại tinh thần, chẳng hạn như làm việc cẩu thả, chỉ để phân nửa tâm trí vào việc này, phân nửa kia thì chú tâm vào một người hay việc nào khác.

(5) Gặp chướng ngại về khẩu, chẳng hạn như trì tụng một bài Kinh hay hành lễ cúng dường (puja), chỉ để được người khác kính trọng, có được tiền bạc hay sự phục dịch cho riêng bản thân.

(6) Từ bỏ hành trì Đại thừa và theo một truyền thống khác, dù đã tu tập theo Đại thừa và xem đây là điều đúng đắn, nhưng lại nản lòng vì không có vị Phật nào thọ ký là chúng ta sẽ đạt giác ngộ ở đâu, vào thời điểm nào.

(7) Giảm sút niềm tin vào đường tu Đại thừa, dù rất nhiệt tình đối với điều này vào lúc ban đầu, nhưng rồi lại nản lòng, khi thấy nó khó khăn như thế nào và sẽ mất bao nhiêu thời gian để thành tựu đường tu Đại thừa.

(8) Thay vì có cảm nhận đúng đắn về lời dạy của Đức Phật về Bát Nhã Ba La Mật Đa, lại dấn sâu vào (nếm trải một cách sâu xa) các pháp thế gian.

(9) Cố gắng tìm tòi tâm toàn trí của một vị Phật bằng cách tu tập theo Tiểu thừa.

(10) Khi đã hiểu những điểm chánh của giáo huấn Đại thừa, thay vì theo đuổi chúng, lại chuyển sang Tiểu thừa, vì nó dễ dàng hơn.

(11) Tin rằng chỉ cần tu học theo giáo huấn Tiểu thừa là có thể đạt được giác ngộ.

(12) Tin rằng Tiểu thừa và Đại thừa giống nhau và đem lại cùng kết quả.

Tám Lỗi Lầm Tạo Ra Tâm Sao Lãng

(13) Có nhiều thành kiến, tư tưởng thiên vị hay định kiến vì bị các đối tượng của giác quan lôi cuốn.

(14) Khi sao chép hay ghi chép sách vở, chẳng hạn như Bát Nhã Ba La Mật Đa, thay vì xem nó chỉ là một cuốn sách, lại xem tự thân cuốn sách là trí tuệ chân thật của chư Phật.

(15) Cố tìm sự an toàn trong các pháp hiện hữu một cách không cần định danh, chẳng hạn như sách vở.

(16) Sinh tâm ưa thích và bám chấp vào sách vở, nói chung.

(17) Sinh tâm ưa thích và bám chấp vào các buổi thuyết pháp và trì tụng, xem những lời này như trí tuệ thật sự của chư Phật.

(18) Sinh tâm ưa thích và bám chấp vào tiền bạc, vào những nơi chốn và quang cảnh đẹp đẽ.

(19) Cảm thấy thỏa mãn khi được khen ngợi hay tâng bốc, và tâm trí tản mạn, nghĩ rằng mình thật tuyệt vời.                                        
(20) Mong cầu giải thoát bằng cách tuân theo ngôn từ của ma vương (mara), đó là những người mang hình tướng của chư Tăng, nhưng giảng dạy một cách sai lầm.

Hai Mươi Ba Lỗi Lầm Liên Quan Đến Thầy Lẫn Đệ Tử

Những lỗi lầm này liên quan đến chúng ta, các đệ tử, sau khi đã tìm hiểu một vị thầy cặn kẽ và xem người này như thầy của mình, rồi sau đó lại khám phá ra những lỗi lầm của thầy và bị ám ảnh khi nghĩ về chúng, so sánh chúng với bản thân. Hiển nhiên, nếu như biết được những lỗi lầm này của vị thầy trước khi nhận họ làm tôn sư, chúng ta nên tránh một người thầy như vậy.

 Mười Bốn Lỗi Lầm Của Vị Thầy, So Với Đệ Tử

(21) Chúng ta, là đệ tử, có lòng kính ngưỡng và nhiệt thành với Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhưng thầy lại giải đãi và không nỗ lực giảng dạy pháp này.

(22) Đệ tử muốn học hỏi Bát Nhã Ba La Mật Đa, nhưng thầy muốn dạy pháp khác. Thầy không hiểu được điều đệ tử mong muốn hay cần học hỏi, chỉ muốn dạy những gì thầy thích. Vấn đề cũng có thể là đệ tử muốn tu học ở một nơi, còn thầy muốn giảng dạy ở một nơi khác.

(23) Đệ tử thì toại nguyện với những gì mình có, còn thầy thì đầy lòng ham muốn vật chất.

(24) Đệ tử thì tu tập theo mười hai hạnh đầu đà, chẳng hạn như sống trong nghĩa địa, không sống dưới mái nhà, v.v..., còn thầy thì không.

(25) Đệ tử có các phẩm chất tốt đẹp, chẳng hạn như niềm tin xác tín, còn thầy thì không.

(26) Đệ tử thì có tâm bố thí rộng lớn, còn Thầy thì keo kiệt.

(27) Đệ tử muốn cúng dường nhiều phẩm vật cho thầy, nhưng thầy từ chối, không nhận cúng dường.

(28) Đệ tử có thể hiểu và học hỏi một đề tài, dù chỉ nghe thoáng qua, còn thầy thì cần sự giảng giải sâu rộng.   
(29) Đệ tử có kiến thức về mười hai loại Kinh điển, còn thầy thì không.    
(30) Đệ tử đã phát triển được Lục độ ba la mật, còn thầy thì chưa.   
(31) Đệ tử thì tinh thông về phương tiện thành tựu giác ngộ, trong khi thầy thì tinh thông về cách đạt được mục tiêu thế gian. Nói cách khác, so với thầy thì đệ tử biết nhiều phương tiện tốt đẹp hơn để đạt được giác ngộ.

(32) Đệ tử có khả năng ghi nhớ giáo pháp rất tốt, còn Thầy thì không.

(33) Đệ tử muốn ghi chép tất cả các giáo huấn về Bát Nhã Ba La Mật Đa, còn thầy thì ngại việc ghi chép hay không muốn cho phép đệ tử làm việc này.

(34) Đệ tử đã vượt qua các chướng ngại phiền nhiễu hàng ngày như hôn trầm, nghi ngờ, hối hận, kiêu mạn, tự phụ và sao lãng tâm trí vì những việc như cảnh trí đẹp đẽ, còn thầy thì chưa.

Ba Lỗi Lầm của Đệ Tử, So Với Thầy

(35) Thầy nói về các địa ngục buồn thảm, làm đệ tử hoảng sợ, từ bỏ ý muốn tái sanh vào các cảnh giới này để giúp đỡ chúng sanh mắc kẹt trong đó.

(36) Thầy nói về niềm hỷ lạc của các cõi trời thiêng liêng, khiến đệ tử sinh tâm ưa thích và muốn được tái sanh vào các cõi đó.

(37) Thầy muốn dạy một nhóm nhỏ, nhưng đệ tử lại dẫn một đám đông đến, làm trái ý thầy.

Sáu Lỗi Lầm Của Thầy Lẫn Đệ Tử

(38) Thầy không công bằng, chẳng hạn như không muốn đệ tử tu học với các vị thầy khác, nhưng đệ tử không đồng ý, lại theo học với các thầy khác.

(39) Thầy muốn và đòi hỏi một số đồ vật từ đệ tử, nhưng đệ tử không muốn trao tặng chúng cho Thầy.

(40) Thầy muốn tới một nơi nguy hiểm đến tánh mạng và muốn đệ tử đi cùng, nhưng đệ tử không đồng ý và không chịu đi theo.

(41) Thầy muốn đến một nơi bị hạn hán nặng, nhưng đệ tử không chịu tháp tùng.

(42) Thầy muốn đến một nơi có nhiều trộm cướp, nhưng đệ tử không chịu đi theo.

(43) Thầy muốn đến một nơi mà người dân cúng dường thật hậu hỷ, nhưng đệ tử không chịu đi cùng.

Ba Lỗi Lầm Liên Quan Đến Những Người Được Xem Là Thầy, Nhưng Thật Sự Là Những Người Sai Trái

(44) Khi ta đang tu học giáo huấn Bát Nhã Ba La Mật Đa xác thực thì người được xem như một vị thầy lại đến và nói rằng, “Những gì con đang học là không tốt. Hãy theo học với ta.”, trong khi giáo huấn về Bát Nhã Ba La Mật Đa mà vị này sắp giảng dạy thật ra chỉ là những điều giả tạo.

(45) Khi ta đang thiền quán về Không tướng một cách đúng đắn thì người được xem như một vị thầy lại đến và nói rằng, “Đừng hành thiền như thế. Thay vì vậy, hãy thiền quán về khía cạnh xấu xa của thân thể, hay những điều khác tương tự như vậy, để có nội quán về Không tướng.”. Nói chung, điều này có nghĩa là ta gặp một người mang danh là thầy, nhưng người này nói rằng phương pháp thiền quán đúng đắn của ta là sai lầm.

(46) Lầm tưởng rằng một người được xem là thầy, “biểu hiện của ma vương”, chính là một đấng giác ngộ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/04/2015(Xem: 9102)
Từ ngàn xưa, con người đã hằng nung nấu, ôm ấp ước mơ được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, sự bất tử trường sinh dường như chỉ thấy có được trong những câu chuyện thần thoại hoang đường, hay truyền thuyết mơ hồ viễn vông.
11/04/2015(Xem: 9618)
Nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với một nền văn minh ngày càng rực rỡ. Khoa học hiện đại được xem gần như là vạn năng, phục vụ mọi nhu cầu vật chất trong đời sống của con người. Thế nhưng, con người đã thật sự hạnh phúc, thật sự chấm dứt khổ đau hay chưa? Đó là điều chúng ta cần phải suy gẫm.
10/04/2015(Xem: 11072)
Người ta thường nói đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, nên những khi mơ màng lơ đãng, lúc thả hồn đi hoang, khi u buồn khắc khoải, lúc mộng mơ vượt rào, khi hạnh phúc dâng tràn, lúc bồn chồn lo lắng, sẽ khiến cho người đối diện dễ dàng phát hiện ra những thầm kín chôn dấu đó đây. Đôi mắt người thương kẻ nhớ đôi mắt lo sợ bất an đôi mắt chứa đầy buồn vui, đôi mắt nhìn đời với toàn màu hồng choáng ngợp hạnh phúc hay đong đầy hệ lụy khổ đau, đều tùy thuộc vào tầm nhìn sự xúc cảm những bất an biến động nổi dậy, hay sự bình yên lan tỏa trong tâm thức mỗi chúng ta.
10/04/2015(Xem: 9435)
Bài pháp với đề tài thực dụng “Đem sự tu tập vào đời sống” đã được Ni Sư Tenzin Palmo trình bày với phong cách đơn giản mà tinh tế, linh hoạt cuả bà. Ni Sư chấm dứt bài giảng, nhìn thính chúng, mỉm cười chờ đợi những câu hỏi của các Phật tử tham dự. Chánh điện Thiền Tự Tiêu Dao sinh động hẳn lên và hội chúng tranh nhau đưa tay xin hỏi. Thông qua sự thông dịch của hai em Phật tử, Ni Sư từ tốn giải đáp từng thắc mắc về cá nhân Ni Sư, về cuộc sống đời thường cho đến các ưu tư về trải nghiệm thiền tập...
10/04/2015(Xem: 8508)
Lần đầu tiên cùng mấy người bạn nước ngoài về thăm Hà Nội vào đầu thập niên 90, tôi vẫn không quên những tấm bảng nguệch ngoạc hai chữ “Thịt Cầy” cùng mấy chú cầy nướng treo lủng lẳng trước dăm ba quán ăn nhỏ trên đường từ phi trường vào trung tâm thủ đô. Biết mấy anh bạn da trắng vốn kỵ thịt chó, tôi bảo họ rằng đấy là những quán bán “thịt nai”! Mãi sau thì họ khám phá ra được và phì cười bảo rằng những con nai của tôi là… “nai biết sủa” (barking deer).
09/04/2015(Xem: 7982)
Tokyo, Nhật Bản, ngày 6 tháng 4 năm 2015 – Vào buổi sáng, đức Đức Đạt Lai Lạt Ma đã có buổi tiếp thân mật với một nhóm các Nghị sĩ Nhật Bản để thảo luận các vấn đề cùng quan tâm. Sau khi ăn trưa, Ngài tham gia vào một Diễn đàn Môi trường toàn cầu cho các thế hệ kế tiếp, tại Yomiuri Hall, Tokyo, Nhật Bản. Sau khi Xướng ngôn viên giới thiệu xong, Ngài phát biểu rằng: Anh chị em quý mến ! Thật là một vinh dự lớn và hân hạnh được cùng quý vị chia sẻ trên tình Bồ đề quyến thuộc với nhau. Đó là truyền thống của chúng tôi, tôi nghĩ rằng đã là Bồ đề quyến thuộc trong tình pháp lữ, chúng ta đã biết nhau, tình pháp lữ chúng ta mãi cho đến ngày cuối cùng của mình. Tôi thật cảm động được kết duyên thêm nhiều pháp lữ.
08/04/2015(Xem: 7835)
Cách khoảng 800 km chuyến bay từ Tokyo đến Sapporo, một cuộc hành trình hoằng pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nhật Bản. Tokyo bầu trời xanh mây trắng bãng lãng, mùa xuân hoa Anh đào nở rộ như một tin vui đón chào một vị Thánh tăng quang lâm. Ngược lại vùng Hokkaido vẫn còn chút mùa Đông tuyết trắng se lạnh. Ngài là vị khách mời đặc biệt của các chi nhánh Sapporo thuộc Junior Chamber International (JCI), một tổ chức xã hội phi chính phủ quốc tế, phi lợi nhuận.
08/04/2015(Xem: 7298)
Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo đạo Phật. Truyền thống xuất gia gieo duyên cho thế hệ trẻ thanh thiếu niên trong cộng đồng là một nét đẹp mà xã hội quốc gia này và các nước theo truyền thống Phật giáo Nguyên thủy như Thái Lan, Lào, Campuchia, Sri Lanka, Myanmar, hay như vùng dân tộc Khmer ở miền Tây Nam bộ của Việt Nam. Mỗi năm tại các Tự viện Phật giáo Thái Lan đều tổ chức lễ xuất gia gieo duyên cho những thanh thiếu niên trong cộng đồng. Một năm tổ chức một vài lần.
08/04/2015(Xem: 9479)
Có một chị bạn rất kính tin Bồ-tát Quán Thế Âm nói với tôi rằng: Khi mẹ của chị bệnh nặng, tưởng chừng như sắp mất, chị ấy đã khấn vái, cầu xin Bồ-tát hãy cứu mẹ và chị chấp nhận chịu giảm đi 10 năm tuổi thọ của mình để cho mẹ được sống. Và thật là mầu nhiệm, mẹ chị ấy đã được Bồ-tát cứu giúp, không chỉ khỏi bệnh mà còn sống thêm vài năm nữa mới mất. Chị rất vui về hạnh hiếu này dù đã mất đi 10 năm tuổi thọ. Tôi cũng kính tin Bồ-tát nhưng không chấp nhận việc Ngài sẽ giúp ai đó “chịu giảm thọ để cho người khác sống lâu thêm” vì ai ăn nấy no, ai tu nấy đắc, không ai có thể chịu tội hay gánh nghiệp thế cho ai. Vậy trong trường hợp của chị ấy thì giải thích như thế nào, nhờ Bồ-tát linh ứng, hay nhờ người con đã gánh bớt nghiệp cho mẹ?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]