Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kaushambi

18/07/201509:24(Xem: 4507)
Kaushambi
XỨ PHẬT TÌNH QUÊ
Thích Hạnh Nguyện - Thích Hạnh Tấn

Kaushambi 

 Thành phố cổ Kaushambi cũng đã từng là một thành phố lớn và quan trọng trong nhiều thế kỷ. Tọa lạc cạnh bờ sông Yamuna cách 51km về hướng tây nam của thành phố Allahabad ngày nay. Đức Phật đã viếng thăm thành phố này vào năm thứ 9 sau khi ngài thành đạo. 
Có một câu chuyện kể rằng, lúc bấy giờ ở tại Kaushambi nọ một gia đình thuộc giai cấp Bà La Môn có một người con gái xinh đẹp và cha mẹ nàng muốn kén một chàng rể quý xứng đáng cho nàng. Một hôm lúc ông đang làm lễ cúng tế thần thì gặp đức Phật đi lại, say mê trước hình dáng trang nghiêm và tốt đẹp của đức Phật nên ông rất lấy làm vừa lòng và muốn chọn đức Phật làm rễ của gia đình. Lúc ấy đức Phật cũng quán sát và thấy ông có nhân duyên lớn được độ nên tìm cách tế độ cho hai ông bà này. Hai bên gặp nhau quả là một duyên tốt lành cho cả hai. 
®g Bà La Môn khi ấy bèn nói đức Phật đứng chờ ông một chút và ngay tức thì ông chạy nhanh về nhà để dẫn vợ và kêu cô con gái cưng ra xem mặt chàng rễ quý. 
Lúc ấy đức Phật cố ý dẫm chân thật sâu trên mặt đất rồi đi qua một ngôi nhà khác nên khi cặp vợ chồng già đến nơi họ không tìm thấy đức Phật. Vợ ông là một người biết xem tướng nên sau khi quán sát dấu chân Phật, bà biết đây không phải là một người tầm thường và là một người đã thoát ly ái dục. Bà lúc ấy im lặng không muốn nói gì thêm với chồng mình và để chờ xem sự việc diễn tiến ra sao. 
Sau một hồi tìm kiếm hai vợ chồng thấy đức Phật đang đI từ xa và ông ta dẫn người con gái đến rồi đề nghị gả cho ngài. Đức Phật mỉm một nụ cười hiền từ và nói lên một bài kệ về trạng thái ngài chế ngự dục vọng như sau:

"Đã nhận thấy ái dục, bất mãn và tham vọng. 
Ta không thích thú gì trong dục lạc của ái tình. 
Thể xác đầy ô trược này là chi?  
Ta chẳng bao giờ muốn sờ đến nó, dầu là chỉ sờ bằng chơn"Ạ.

 Nghe đến đây hai vợ chồng Bà La Môn đắc quả A Na Hàm nhưng cô con gái Magandhiya con ông bà không hiểu nên rất lấy làm tức giận vì nghĩ rằng đức Phật chưỡi mắng nàng nên nén giận trong lòng và thề sẽ tìm cách trả thù sau này. 
Quả thật do sắc đẹp tuyệt trần của cô nên về sau cô đã được làm thứ hậu của nhà vua Udena và một dịp khi đức Phật cùng chúng tăng đến nơi này để hoằng đạo, cô cho người mắng chưởi và xua đuổi đức Phật ra khỏi thành phố. Những người được mướn thuê làm công việc này khi gặp ngài đi đâu họ cũng đi theo và chưởi rủa ngài như vầy:

"Ông là tên ăn trộm, đồ khờ dại ngu si, ông là người điên cuồng, đồ con lạc đà, đồ bò, đồ lừa. Ông là người ở địa ngục chui lên, đồ súc sanh. Ông sẽ không mong gì được lên nhàn cảnh. Hình phạt và cảnh nổi khổ đau là tất cả những gì ông có thể mong đợi. 
Ngài A Nan cảm thấy rất bực mình vì những lời chưởi rủa nhục mạ cứ mãi đi theo sau nên thỉnh ý đức Phật đi sang một làng bên. 
- Này A nan, ta nên đi đâu bây giờ? 
- Bạch đức Thế tôn, chúng ta sẽ đi đến một thị trấn khác. 
- Nếu ở nơi ấy người ta cũng chưỡi rủa và nhục mạ thì ta sẽ đi 
đâu? 
- Bạch đức Thế tôn, chúng ta lại đi đến một nơi khác nữa. 
- Này A Nan không nên nói như vậy. Nơi nào gặp chuyện khó khăn thì chính nơi ấy ta phải dàn xếp cho ổn thỏa. Và chỉ khi giàn xếp xong ta mới có quyền đi nơi khác. Và ngài dạy thêm rằng, những người này chỉ mắng chưởi trong bảy ngày mà thôi và đến ngày thứ tám họ sẽ im. Mọi chuyện khó khăn xảy ra cho đức Phật không thể kéo dài quá bảy.Về hướng đông của tịnh xá và ngay giữa một khu rừng xoài, có một bức nền thành xưa; đây là nơi Bồ tát Vô Trước đã tạo ra bộ luận Hiển dương Thánh giáo. 
Khoảng 8 hay 9 lý về hướng tây nam của thành phố là nơi ở của một con rồng hung ác. Sau khi hàng phục xong con rồng này, đức Phật đã cho in bóng ngài lại đây. Mặc dầu nơi đây thường được mọi người biết đến, tuy nhiên khi ấy không còn dấu vết nào để lại.

Cạnh bên là một ngôi tháp do vua A Dục xây dựng cao khoảng 200 feet. Gần đó là những dấu vết nơi đức Phật thường đi qua đi lại và ở đây cũng có tháp Xá lợi tóc và móng tay của ngài. Những đệ tử đức Phật thường bị khổ sở bởi các căn bịnh đau đớn hành hạ, nhưng khi cầu nguyện nơi này thì đều được chữa khỏi. 
Khi giáo pháp đức Phật ở những nơi khác suy đồi thì nơi này Phật pháp vẫn còn hưng thịnh, vì thế từ những người có dòng tộc cao sang cho đến người hạ tiện khi ai đến đây cũng không khỏi khởi niềm cảm xúc, rung động ngay cả đến rơi lệ khi họ trở về xứϮ

Ngày nay thành phố này có tên là Kausam, cũng là một ngôi làng nhỏ nằm cạnh bờ sông Yamuna. Các di tích về Phật giáo ở nơi này ngày nay cũng chẳng còn gì ngoài một trụ đá của vua A Dục và một số nền móng các chùa viện, đền tháp khi xưa.

Đến Kaushambi

 Đây là một nơi xa vắng, không tiện đường với tất cả các thánh tích khác và khó đi. Tuy nhiên để viếng thăm Kaushambi này khách hành hương có thể đi đến thành phố Allahabad bằng xe lửa hoặc máy bay. Từ đó có thể lấy xe buýt hoặc thuê Taxi đi đến Kaushambi. Đoạn đường này mất khoảng hai tiếng xe. Khi đi thăm các thánh tích khác, người ta phải trở ra thành phố chính Allahabad lấy xe hoặc tàu để đi các nơi khác. 

Ngủ lại đêm

P.W. D. Inspection House, Kaushambi, Allahabad. 
Tourist Bungalow, 35 M.G. Marg, Allahabad.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2012(Xem: 8770)
Gần đây, một tạp chí Phật Học có đăng thư một độc giả hỏi vị giáo thọ phụ trách, "Tôi vừa mới được quy y và bắt đầu học Phật, tôi thấy con đường này mênh mông quá. Tôi có một khó khăn là không biết mình nên bắt đầu từ nơi đâu đây? Những giáo lý về sanh diệt, tác ý, nghiệp quả, duyên sinh... cái nào cũng rất là quan trọng và cần thiết. Và tôi cũng được hướng dẫn ngồi thiền. Nhưng ngoài chiếc gối ngồi thiền ra, ta phải bắt đầu ở nơi đâu đây?"
05/02/2012(Xem: 7307)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
05/02/2012(Xem: 7841)
Tất cả mọi người, mọi loài, mọi thứ trên hành tinh này đều đi về phía chết, phía không tìm, phía mà khi đang sống không mấy ai quan tâm. Trái đất không là ngoại lệ dù nó to lớn dềnh dàng đến đâu và quay tít như thế, cho dù sự đi về của nó vượt ngoài thời gian hạn hẹp, ngoài phạm vi hiểu biết của con người nhưng nó cũng phải đi về trên hành trình, quy luật của nó, không mảy may sai khác. Loài người không sinh ra trái đất nhưng có thể hủy hoại, giết chết trái đất. Loài người cũng có thể cứu sống trái đất, giúp trái đất trường thọ hơn, như đứa con hiếu thảo giúp bà mẹ vĩ đại của mình vượt trở ngại, ốm đau, bệnh tật; giúp trái đất xanh hơn, của để dành tươi tốt, ấm cúng yên bình, chốn dung thân các thế hệ kế tiếp của hằng ngàn ngàn sau. Đừng là những đứa con hư, cướp bóc, tàn phá mẹ mình đến khánh kiệt sức lực, tàn úa vì dục vọng hư huyễn, nhu cầu thái quá của chính mình.
04/02/2012(Xem: 8614)
"Giữ chánh niệm." "Sống trong giây phút hiện tại." "Chú ý đơn thuần." Trên con đường tu học, chắc chúng ta đều có nghe vềnhững lời khuyên này. Và nếu bạn có kinh nghiệm về thực tập thiền quán, những câu ấy là một tiếng chuông nhắc nhở chúng ta từ sáng đến khuya, rằng ta có thể tìm thấy tất cả những gì là chân thật ngay trong giờ phút hiện tại này.
04/02/2012(Xem: 7906)
Từ nhiều năm nay, Christian Maes đã đưalên mạng Internet (http://majjhima.perso.neuf.fr/) một tuyển tập dịch thuật gồm những bài kinh chọn lọctrong bộ Trung A Hàm(Majjhima Nikaya) tức là "Các bài thuyết giảng có chiều dài trung bình"và cũng là một trong số các bộ Kinh quan trọng nhất của Phật giáo nguyên thủy.
29/01/2012(Xem: 6926)
Dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn đề cao tinh thần đoàn kết bền chặt, luôn tạo nên một sức mạnh có thể vượt qua tất cả những thử thách chông gai, những nỗi áp bức nặng nề. Lịch sử đất nước ta đã trải qua biết bao thăng trầm, khi cam chịu nô lệ, lúc độc lập tự chủ, khi thống nhất một dải, lúc phân đôi sơn hà. Qua đó, lịch sử cũng đã để lại những trang sử oanh liệt, hào hùng cũng như những đêm dài đen tối nô lệ hàng thế kỷ. Do đó, con người Việt Nam vừa có tinh thần độc lập, tự cường rất cao, với tinh thần đoàn kết gắn bó keo sơn nên đã giành lại đất nước, đánh tan quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
28/01/2012(Xem: 6099)
Dưới đây là phần chuyểnngữ toàn bộ chương I (tr.13-20) của một quyển sách nhỏ về Phật Giáo, mang tựa đề"Phật Giáo nhập môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bảnGrancher, 2008). Tuy bàn về những vấn đề rất căn bản thế nhưng tập sách lại đượcviết bởi một triết gia Phật Giáo sâu sắc nổi tiếng hiện nay là Fabrice Midal.
26/01/2012(Xem: 6696)
ĐứcThích-ca Mâu-ni là vị Phật lịch sử và cách nay đã lâu lắm, đã khám phá ra một ConĐường thật độc đáo, đấy là Con Đường giúp chúng ta loại bỏ mọi khổ đau và tìmthấy một sự tự do đích thật. Sau khi khám phá ra Con Đường đó thì Đức Phật, lúcấy còn rất trẻ, đã hy sinh phần còn lại của kiếp nhân sinh cuối cùng của mình đểtrỏ cho chúng ta trông thấy Con Đường ấy bằng ngón tay của chính Ngài. Hôm naychúng ta là những người đang tu tập bằng cách hướng theo ngón tay của Ngài vàbước theo các vết chân của Ngài vẫn còn in đậm trên Con Đường ấy.
26/01/2012(Xem: 8132)
Trong đờisống hằng ngày, cho để nhận là một chuyện rất bình thường trong mọi sự trao đổilẫn nhau. Tôi trả tiền, tôi nhận món hàng. Vậy, chođể nhận là một quy luật tự nhiên hay còn là một nguyên tắc đạo đức? Đó là mộthành động tự nguyện, bất vụ lợi, xuất phát từ lòng thương người? Nhưng có điều chắc chắn là lòng vị tha bác ái, cho qua con tim, mới thật sự đem đến cho tanhiều hạnh phúc.
24/01/2012(Xem: 12502)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]