Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Nói Đầu

18/07/201509:18(Xem: 5483)
Lời Nói Đầu
XỨ PHẬT TÌNH QUÊ
Thích Hạnh Nguyện - Thích Hạnh Tấn

Lời Nói Đầu: 

Từ muôn trùng xa xôi diệu viễn, chúng tôi đã đến Ấn Độ bằng những tâm trạng vô cùng phức tạp. Những bước chân đàu dọ dẫm trên miền đất mới. Những ấn tượng sâu đậm chập chùng đã sống dậy trong tâm hồn chúng tôi. Là những đứa con của Phật, là những người đã chọn cho mình lối sống truyền thống của người thoát ly, dĩ nhiên chúng tôi luôn ao ước được đặt chân đến nơi đã từng là trụ xứ của người cha tinh thần của chúng tôi, của người cha hiền mà chúng tôi quen gọi là từ phụ.

Trong truyền thống Việt Nam, do ảnh hưởng nặng nề nền tư tưởng Khổng giáo của Trung Hoa, người cha luôn đóng vai trò của một ‘nghiêm thân’, luôn là một tàng cây vững chải cho cả gia đình nương tựa, chứa trong thân những thớ gỗ ngọt ngào đầy nhựa sống nhưng lại được bao bọc bên ngoài bằng lớp vỏ sần sùi khô cứng. Hình ảnh người cha là bóng dáng của một con người nghiêm nghị như thế đó, trong khi người mẹ là ‘từ mẫu’ luôn dịu dàng săn sóc đàn con, tâng tiu con khi bị ngã, an ủi con lúc buồn đau. Người mẹ như những chiếc cành non với những chiếc lá xanh tươi nõn nà luôn cho con những bóng mát của tình thương. Hai đấng ‘từ nghiêm’ là hai tính từ dành cho cha và mẹ. Trong đạo Phật thì khác; Đức Phật là một người cha, hình ảnh của sức mạnh và của nơi nương tựa, nhưng lại đầy tình thương của một người mẹ, nên trong đạo Phật ngài được xem là đấng Từ Phụ. Nơi sản sinh ra Ngài đối với chúng tôi vừa là quê cha, quê hương của nguồn gốc của giống nòi, lại vừa là quê mẹ, quê hương của tình thương ngọt ngào. 
Đến từ miền ôn đới Âu Châu chúng tôi đón nhận cái nóng hắt của Ấn Độ khi bước chân ra khỏi phi cơ như những ân tình nồng cháy của người cha hiền dành cho chúng tôi. Những đoạn đường chúng tôi đã qua, từng bước chân chúng tôi dò dẫm theo lối người xưa. Đây là Lâm Tỳ Ni trong hoang tàn đổ nát, nằm gần thành Ca Tỳ La vệ, một nơi mà chỉ còn lại là dư ảnh của ngàn xưa. Kia Bồ Đề Đạo Tràng với khung quang thanh nhã, với muôn người Phật tử đổ về để hưởng sái ánh hào quang đã tỏa ra từ nơi đây hơn 2500 năm về trước. Một vườn Lộc Uyển đơn côi như còn vọng về những âm thanh khi mà bánh xe pháp được chuyển lần đầu tiên, những chú nai như ngơ ngẩn kiếm tìm bóng dáng siêu thoát đã từng ngự nơi đây. Rồi cuối cùng chúng tôi đã dừng chân với nỗi ngẹn ngào tức tưởi trong thành Câu Thi Na bên bức tượng đẹp tuyệt vời của người xưa. Qua màn lệ mỏng hình ảnh Ngài như sống dậy, nét mỉm cười vượt khỏi không gian và thời gian như đang chê trách đứa con ngu: ‘Cha vẫn còn đây, nào đã mất. Ngày nào giới luật còn được giữ nghiêm minh thì ngày ấy ta còn hiện hữu ở cõi đời này.’

Trên suốt đoạn đường dĩ nhiên còn nhiều nơi mà đức Phật đã lưu lại những bước chân lịch sử. Một số nơi khác những đứa con Ngài đã làm rạng danh. Từng nơi, từng nơi chúng tôi đều tìm đến, đến để nhớ, để thương và để tìm thêm chất liệu cho cuộc hành trình đi về nẻo sáng. Cuộc hành trình tâm linh là kinh nghiệm cá nhân và không thể dùng lời mà diễn tả được, chỉ có cuộc hành trình trên con đường sỏi đá là có thể ghi lại mà thôi. Trong tâm trạng muốn sang xẻ nỗi niềm ấy với tất cả mọi người, chúng tôi cố gắng ghi lại những lịch sử và quang cảnh của các Phật tích nơi Ấn Độ. Dĩ nhiên với những kinh nghiệm non nớt và những tư duy ấu trĩ chúng tôi còn nhiều sơ xuất trong cuốn tài liệu này. Kính mong những bậc cao minh vui lòng góp ý chúng tôi chân thành nhận lãnh. 
Chúng con cũng muốn nhân đây để tỏ lòng tri ân của chúng con đối với Thầy Bổn Sư, Thượng Tọa Thích Thượng Như hạ Điển viện chủ chùa Viên Giác Đức Quốc, và quý Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức tăng ni trong giáo hội Phật Giáo Âu Châu, đã có công dạy dỗ, đào tạo và tạo nhân duyên cho chúng con có được những kinh nghiệm hôm nay và những phước duyên mà chúng con đã gặp trên quảng đường tu tập. 
Chúng tôi cũng xin hồi hướng công đức đến tất cả quý Phật tử đã có công đóng góp bằng tất cả hình thức trực tiếp hay gián tiếp, vật chất hay tinh thần, để giúp đỡ chúng tôi trên con đường tu học. Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh mọi loài sớm quay về với ánh sáng giác ngộ và sớm bước lên quả vị giải thoát của bậc chánh giác.

Cung kính

Tỳ Kheo Thích Hạnh Nguyện 
Tỳ Kheo Thích Hạnh Tấn-Vô Thức.


Chân thành cảm ơn quý tác giả và thầy Nguyên Tạng đã gởi tặng phiên bản điện tử của quyển sách này. (Tâm Diệu - 5-2000)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/05/2019(Xem: 7941)
SỐNG TRỌN VẸN NHƯ THẾ NÀO Nguyên bản: How to practice the way to a meaningful life Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
20/05/2019(Xem: 8183)
Đến tận giây phút này, giờ phút ngồi trước máy tính gõ bàn phím, khi tóc đã bạc sương vào tuổi sáu mươi của đời người ngắn ngủi, tôi vẫn còn nhớ như in buổi học môn Văn của lớp 9/5. Thầy, tôi nhớ không lầm là thầy dạy thế, tạm thời đứng lớp thay cho thầy Xuân mới chuyển công tác, nên cái duyên kết dính với lớp của tôi rất mỏng manh. Buổi học đó thầy giảng đến bài “Các thể loại Thơ”, cứ mỗi thể thơ nhắc đến đều được thầy đưa ví dụ một bài thơ tiêu biểu, và đến thể thơ “Ngũ ngôn” thì thầy đọc ngâm: “Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua…”
17/05/2019(Xem: 7210)
Theo Yahoo News ngày 19/11/2018, nữ dân biểu Hồi Giáo ILhan Omar vừa đắc cử ở Minnesota (nơi đông đảo sắc dân Somalia) nói rằng bà sẽ tranh đấu để hủy bỏ lệnh cấm mang khăn trùm đầu tại phòng họp của Hạ Viện kéo dài đã 181 năm. Các dân biểu của Đảng Dân Chủ tuần rồi loan báo (vào Tháng Giêng 2019) họ sẽ thay đổi luật cấm choàng khăn tại đây mà điều luật này cũng có nghĩa là cấm đội khăn trùm đầu mà Bà Omar đang đội. Bà Omar còn nói rằng, không ai trùm chiếc khăn này lên đầu tôi. Đó là lựa chọn của tôi và nó được Tu Chính Án Số Một bảo vệ. (No one puts a scarf on my head but me, Omar wrote. “It’s my choice - one protected by the First Amendment.)
16/05/2019(Xem: 8544)
Từ Bi là căn bản của đạo, căn bản của tất cả pháp lành, như đã được Đức Phật thuyết trong kinh Đại Bát Niết Bàn: “Nếu có người hỏi gì là căn bổn của tất cả pháp lành? Nên đáp: Chính là tâm từ… Này thiện nam tử (Ca Diếp Bồ Tát)! Tâm từ chính là Phật tánh của chúng sanh, Phật tánh như vậy từ lâu bị phiền não che đậy nên làm cho chúng sanh chẳng đặng nhìn thấy. Phật tánh chính là tâm từ, tâm từ chính là Như Lai (Đại Bát Niết Bàn, Tập I, Phẩm Phạm Hạnh (1999, PL2543), tr.520, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh). Vì thế, người con Phật không thể không thực hành hạnh từ bi.
14/05/2019(Xem: 16955)
Ở tuổi 65 của năm nay là tuổi bắt đầu đi xuống. Bệnh tật đã thể hiện ở thân và từ từ thì giờ dành cho Bác sĩ cũng như Nha sĩ nhiều hơn những năm trước; nhưng trong tâm tôi vẫn luôn cố gắng là lạy cho xong quyển 2 của bộ kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi chữ mỗi lạy trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ tại chùa Viên Giác Hannover. Đó là tâm nguyện của tôi, mong rằng sức khỏe sẽ cho phép để thực hiện xong nguyện vọng đã có từ hơn 30 năm nay tôi vẫn cùng Đại chúng chùa Viên Giác tại Hannover trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ thường thực hành như vậy. Đây không phải là việc khoa trương, mà là một pháp tu, một hạnh nguyện. Do vậy tôi vẫn thường nói rằng: Nếu sau nầy tôi có ra đi, mọi việc khen chê hãy để lại cho đời; chỉ nên nhớ một điều là từ 50 năm nay (1964-2014) trong suốt 50 năm trường ấy tôi đã hành trì miên mật kinh Lăng Nghiêm vào mỗi buổi sáng tại chùa, tại tư gia hay trên máy bay, xe hơi, tàu hỏa v.v… và cũng trong suốt 30 năm (1984-2014) vào mỗi tối từ 20 giờ đến 21 giờ 30 trong mỗi mùa An Cư Kiết Hạ
12/05/2019(Xem: 8861)
Trong một kinh về tuệ trí hoàn thiện (bát nhã), Đức Phật đã đưa ra tuyên bố thậm thâm như sau: Trong tâm, tâm không tìm thấy được, bản chất của tâm là linh quang.
12/05/2019(Xem: 6618)
Kinh luận của Phật giáo nói với chúng ta rằng trên việc thực chứng tánh không, vọng tưởng về sự tồn tại cố hữu yếu đi, nhưng điều này không phải như sau một sự thực chứng đơn lẻ, ngắn gọn.
10/05/2019(Xem: 5802)
Y vàng thanh thoát chốn chùa chiền, Tỏa sáng niềm tin tỏa ánh thiêng Pháp lữ huân tu nền định tuệ Tăng thân trưởng dưỡng giới hương thiền An Cư thúc liễm ngời hoa giác Kiết Hạ tu trì rạng sắc liên K Nhưng tại sao lại khó như vậy ?có phải chăng, vì muốn được thân người, phải cả đời giữ gìn ngũ giới nghiêm ngặt:(1/ không sát sanh, 2/ không trộm cướp, 3/ không tà dâm. 4/ không nói dối, 5/ không uống ruợu). Nhưng vì sự hấp dẫn của “ngũ dục”(tài, sắc, danh, thực, thuỳ) để rồi thuận theo dòng vô minh, xem những tiện nghi vật chất trên thế gian này là trường tồn vĩnh viễn, là hạnh phúc muôn đời, xem những thành công về hình tướng là sự thành tựu chí nguyện, nên mặc sức để cho dòng đời lôi cuốn vào đường “thị phi”, “danh lợi” xem việc hưởng thụ “ngũ dục” là lẽ đương nhiên, là vinh dự và hạnh phúc. Từ đó lơ đểnhnăm điều cấm giới.Một khi sức giữ năm giới cấm, một cáchlơ là,mãi “lang thang làm kiếp phong trần, quê nhà ngày một muôn lần dặm xa”thì cơ hội kiếp sau làm lại được thân người,
09/05/2019(Xem: 7700)
Bà La Môn Giáo là Đạo giáo có xuất xứ từ Ấn Độ và Đạo nầy đã tồn tại ở đó cho đến ngày nay cũng đã trên dưới 5.000 năm lịch sử. Họ phân chia giai cấp để trị vì thiên hạ, mà giai cấp đầu tiên là giai cấp Bà La Môn, gồm các Giáo Sĩ, rồi Sát Đế Lợi gồm những Vua, Chúa quý Tộc. Kế đó là Phệ Xá gồm những thương nhơn, Thủ Đà La và cuối cùng là hạng cùng đinh . Những người có quyền bính trong tay như Bà La Môn hay Giáo Sĩ, họ dựa theo Thánh Kinh Vệ Đà để hành xử trong cuộc sống hằng ngày; nghĩa là từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, học hành, thi cử, ra làm việc nước và giai đoạn sau đó là thời kỳ họ lánh tục, độ tuổi từ 40 trở lên và họ trở thành những vị Sa Môn sống không gia đình, chuyên tu khổ hạnh để tìm ra chân lý.
08/05/2019(Xem: 7414)
Tùy duyên là hoan hỷ chấp nhận những gì xảy ra trong hiện tại, ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi nhân duyên thích hợp hội tụ. Nhiều khi chính thái độ ngưng đối kháng và bình thản chờ đợi ấy lại là nhân duyên quan trọng để kết nối với những nhân duyên tốt đẹp khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]