Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Buổi bình minh

10/04/201511:56(Xem: 8933)
03. Buổi bình minh

 

TRONG ĐỘNG TUYẾT SƠN 
TENZIN PALMO và CUỘC SUY TẦM CHÂN LÝ 
Nguyên tác : Cave in The Snow Tenzin Palmo and The Quest For Enlightenment 

Tác Giả: Vickie Mackenzie - Người Dịch: Thích Nữ Minh Tâm



CHƯƠNG BA 

BUỔI BÌNH MINH

  
Tenzin kể:  
  
- "Khi tôi tìm hiểu về Ấn Độ giáo, tôi nhận thấy đạo giáo này chủ trương về "Thần Ngã" (Atman) nhiều quá. Phật giáo, trái lạí chủ trương "Vô Ngã". Đối với tôi, danh từ Vô Ngã đó hàm chứa một sự tự do tuyệt đối vô cùng. Cuối cùng, tôi đã tìm được cho tôi một tôn giáo, một con đường tâm linh tuyệt vời để đi theo."  
  
Quyển sách "The Mind Unshaken" đã thay đổi đời tôi hoàn toàn. Tôi nhớ lại ba ngày sau khi đọc xong quyển sách; vừa đi đến sở làm, tôi vừa suy nghĩ "Tôi đã là Phật tử được bao lâu rồi. Ba ngày thôi sao? Không, tôi đã là Phật tử từ vô lượng kiếp rồi vậy."Một khi đã thấy con đường mình phải đi, Tenzin Palmo không bỏ lỡ cơ hội để đi đến đích. Cô nói "Khi bạn muốn làm gì, bạn phải làm ngay, đừng phí phạm thì giờ." Đó là tiêu chuẩn sống của Tenzin.  
  
Nhưng đó không phải là chuyện dễ dàng thực hiện ở Anh quốc, nhất là vào thập niên 60. Ngày nay, Phật giáo đã lan rộng khắp năm châu; hàng trăm thiền viện mọc lên như nấm và tài liệu nhan nhãn khắp nơi; người ta tìm hiểu Phật giáo dễ dàng - nhưng vào những năm 60, thì quả là một việc rất khó khăn.  
  
 - "Tôi luôn luôn nhớ trong lòng là Đạo Phật dạy con người phải nên diệt dục - nghĩa là diệt trừ bớt những ham muốn thô thiển, thấp hèn - vì thế, tôi đã dẹp bỏ hết quần áo và chỉ mặc một lọai áo dài mầu vàng, một chiếc thắt lưng và mang vớ đen. Tôi không trang điểm, và không hẹn hò với đám thanh niên nữa. Tôi cố gắng hết sức để diệt trừ những ham muốn bình thường của một con người."  
  
Ít lâu sau, Tenzin khám phá được một hiệp hội Phật giáo ở Eccleston Square, do ngài Chánh Án Christmas Humphreys sáng lập vào năm 1924.  
  
Humphreys là người đầu tiên giới thiệu tư tưởng triết lý phương Đông đến người Tây Phương. Ông đã làm quen, và học hỏi với những triết gia nổi tiếng thời đại như Carl Jung, học giả thiền sư Suzuki và các hoàng thân Thái Lan; ông cũng là một trong những người ngoại quốc đầu tiên đến tham vấn Đức  
  
Đạt Lai Lạt Ma khi Ngài vừa lưu vong ra khỏi Tây Tạng. Nhưng, mặc dù Hiệp Hội Phật giáo này đã thành lập lâu năm, nó cũng vẫn chỉ là một căn nhà nhỏ với số thành viên rất hạn chế.  
  
"Khi bước vào căn phòng chính của Hiệp Hội này, tôi rất ngạc nhiên vì không có ai mặc áo dài mầu vàng cả. Có lẽ tôi đã sai lầm khi vứt bỏ hết quần áo của tôi."  
  
"Tôi nói chuyện với mẹ tôi và bà lặng lẽ đưa chìa khóa tủ quần áo cho tôi. Bà không vứt đi một cái nào hết. Bà cũng chẳng hỏi tại sao, bà chỉ thản nhiên chờ đợi. Mẹ tôi rất nhạy bén và hiểu tôi rất nhiều."  
  
— Eccleston Square, Tenzin Palmo đắm mình vào kho tàng giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo. Tông phái này đang phát triển tại Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, và Cam Bốt. Cô học Tứ Diệu Đế và thấu suốt được nguyên nhân đau khổ của con người và phương pháp diệt trừ đau khổ. Cô tìm hiểu Bát Chánh Đạo và Thiền học. Cô cũng tập trì niệm 6 chữ "Án Ma Ni Bát Dị Hồng", mặc dù cô chẳng hiểu thần chú ấy có ý nghĩa gì - nhưng với lòng nhiệt thành và niềm tin sắt đá, Tenzin nói là đã cảm thấy có hiệu lực kết quả khi cô luôn thầm niệm "Án Ma Ni Bát Dị Hồng."  
  
Tuy nhiên, giáo lý Nguyên Thủy Phật giáo vẫn chưa thỏa mãn được Tenzin. Cô vẫn thấy có một cái gì thiêu thiếu như một lỗ hổng trong giáo lý Nguyên Thủy với sự tu chứng của các vị A La Hán.  
"Tôi rất ngưỡng mộ sùng kính Đức Phật; những gì Ngài dạy đều hoàn toàn minh bạch và tùy duyên, căn cơ của chúng sanh. Đối với tôi, quả vị A La Hán không phải là con đường tôi muốn theo. Với trình độ hiểu biết của tôi lúc đó, tôi chỉ nhận thấy giáo lý Nguyên Thủy không thích hợp với tôi." 

Vài tháng sau, tình cờ cô đọc được một quyển sách của ngài Long Thọ, vị hiền thánh và triết nhân Phật giáo nổi tiếng ở thê kỷ thứ 2. Trong sách, Ngài Long Thọ luận giải về quả vị Bồ Tát. Lý tưởng hành "Bồ Tát Đạo" cứu giúp chúng sinh đã hấp dẫn Tenzin Palmo và cô nhận thức ngay rằng đây mới chính là con đường cô muốn đi. 

Đại thừa Phật giáo và lý tưởng Bồ Tát do ngài Long Thọ khai phá và luận giải, đã phát triển nhanh chóng, thu hút nhiều tín đồ; nhất là ở Tây Tạng. Nhưng Phật giáo Tây Tạng vào những năm 60 thì hầu như không có ai biết đến và cũng khác hẳn những gì người ta biết về Phật giáo. 

Những huyền thoại hay chuyện hoang đường bao phủ xứ Tây Tạng và được thêu dệt thêm lên do những tay du hành tìm cách len lỏi vào vùng "Đất Cấm" này. Những câu chuyện đầy thần bí đó càng lúc càng hấp dần người nghe hơn - "những vị Lạt Ma có thể bay trên hư không, tùy ý biến hóa đồ vật hay hóa thân ra đủ mọi loài, hoặc vượt qua những khoảng cách, chướng ngại một cách tự tại." Họ kể lại rằng "— Tây Tạng, người ta thờ rất nhiều vị thần; có những ngẫu tượng có nhiều tay nhiều chân, răng nanh và mắt lồi ra thật hung dữ." Tuy nhiên, theo đa số các học giả trong hội London Buddhist Society, thì Phật giáo Tây Tạng là một cái gì huyền bí và không có sự truyền thừa; khác với truyền thống chính phái Thiền và Nguyên Thủy Phật giáo. Lúc đó, không một ai nghĩ rằng Phật giáo Tây Tạng có thể phát triển mạnh được. — điểm này, Tenzin Palmo, một thành viên mới của hội, lại nghĩ khác và thiên về Phật giáo Tây Tạng nhiều hơn. Cô bắt đầu tìm hiểu kỹ thêm về Phật giáo Tây Tạng và một hôm, tình cờ cô đọc một quyển sách nói về 4 trường phái cổ của Phật giáo Tây Tạng : 1) phái Nyingmapa: thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là trường phái cổ về Mật Tông bí thuật, 2) phái Sakya thế kỷ thứ 11 trước Công Nguyên là phái pha lẫn cả hai dòng mới và cổ về Mật Tông, 3) phái Geluppa vào thế kỷ thứ 14 trước Công Nguyên là trường phái triết học, và 4) phái Kargyupa vào khoảng thế kỷ thứ 8 trước Công Nguyên là phái ẩn sĩ ở núi cao hang thẳm. 

"Khi tôi đọc đến chữ "Kargyupa", hình như có một giọng nói vô hình nói với tôi rằng "Con là Kargyu". Tôi hỏi "Kargyu là gì?" "Điều đó không quan trọng" "Con chỉ biết đích thực con là Kargyupa." Tim tôi cơ hồ như ngưng đập trong giây lát. Trở thành một tín đồ Phật giáo Tây Tạng là ước muốn cuối cùng của tôi." 

Theo sự chỉ dẫn của Tiếng Nói Nội Tâm vô hình, Tenzin Palmo tìm gặp một người duy nhất ở Luân Đôn mà cô biết là ông ta rất am tường về Phật giáo Tây Tạng. Ông ta đưa cho cô ta đọc một quyển sách viết về Milarepa, một vị cao tăng ẩn sĩ của Tây Tạng. Ngài là một bậc thi nhân hiền triết nổi tiếng đồng thời cũng là người sáng lập ra tông phái Kargyupa. 

Milarepa là một hiện tượng phi phàm, là một biểu tượng về trí tuệ xuất chúng ở thế kỷ thứ 11.  
Khi còn trẻ, Milarepa đã tu luyện tà thuật và đã giết một số người. Sau khi nhận rõ sự sai lầm của mình, Milarepa đi tìm một vị đạo sư và tỏ ý cầu đạo. 

Trải qua những cuộc thử thách kịch liệt, có lần suýt mất mạng, Milarepa được Thầy thâu nhận và truyền dạy bí mật chân truyền.  
 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 7542)
Khác hẳn với tất cả các hệ thống triết lý và tôn giáo trên thế giới, Đạo Phật – tự bản chất lẫn hiện tượng – vừa là một hệ thống triết lý mà cũng vừa là một hình trạng tôn giáo hoàn chỉnh với sự kết hợp hài hòa giữa tín điều và tín lý. Giữa cuộc đời, đức Phật là một vị Thầy hóa độ; trong đức tin, đức Phật là một đấng Giác Ngộ chứng tri. Người theo đạo Phật là những người luôn luôn tỉnh thức để làm chủ lấy mình , không giao trọn số phận của mình cho sự định đoạt của một đấng quyền năng tuyệt đối nào cả.
10/10/2010(Xem: 11061)
Trước hết, chúng ta đã ý thức được tầm cỡ có tính cách toàn cầu của một số vấn đề bức xúc đang đối mặt với chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ biết được làm thế nào để huy động trí tuệ và sức mạnh của nhân dân thế giới để giải quyết một cách tốt đẹp những vấn đề đó. Thí dụ các vấn đề chiến tranh và hòa bình, vấn đề xây dựng một nền trật tự kinh tế mới, một nền trật tự đạo đức mới cho thế giới, vấn đề bảo vệ môi trường của chúng ta.
10/10/2010(Xem: 8215)
Giữa cơn lốc biến động xã hội đầy kịch tính của cuối thế kỷ 20, trước sự sụp đổ của con người đối với các vấn đề khủng hoảng sinh thái tâm linh và môi trường, mùa Phật lại trở về như nguồn suối hạnh phúc chảy vào tâm thức mọi người.
10/10/2010(Xem: 9580)
Lẽ thường trong chúng ta, ai ai cũng đều có một cái “cái ngã”, hay “bản ngã”. Không những cái ngã của chính mình mà còn ôm đồm cái bản ngã của gia đình mình, của bằng hữu mình, của tập thể mình, của cộng đồng xã hội mình, của tôn giáo mình, của đất nước mình, và thậm chí cho đến cái bản ngã của chủ nghĩa mình; dù đó là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, hay chủ nghĩa hiện sinh...
09/10/2010(Xem: 9584)
Sáutu sĩ khổ hạnh quấn trên người những chiếc áo bạc màu bụi đường cùng nhau "tiến sâu vào lãnh thổ của xứ Ma-kiệt-đà"(Magadha) trong thung lũng sông Hằng (PhổDiệu kinh - Lalitavistara). Họ đixuyên ngang các thôn xóm và những cánh đồng xanh mướt. Chung quanh cảnh vật êm ảvà lòng họ thật thanh thản. Họ là những người quyết tâm từ bỏ gia đình để chọnmột lối sống khắc khổ, không màng tiện nghi vật chất mà chỉ biết dồn tất cả nghịlực để đi tìm bản chất của thế gian này và nguyên nhân đưa đến sự hiện hữu củachính họ.
06/10/2010(Xem: 8190)
Sở dĩ tôi nói tới ăn uống ở hàng đầu vì có thể tới 90 phần trăm những bệnh của con người là do ăn uống mà ra. Cơ thể ta luôn luôn giữ một mức độ thăng bằng trước những biến đổi ngoại cảnh. Ngoại cảnh có nóng hay lạnh, cơ thể vẫn giữ ở một mức độ 30 độ bách phân. Ngoại cảnh có làm tim ta đập nhanh hay chậm một chút nhưng sau đó cơ thể vẫn giữ ở mức độ 70 tới 100 nhịp tim mỗi phút. Cũng như vậy đối với huyết áp, số lượng máu, nồng độ của các chất hữu cơ hoặc vô cơ trong cơ thể. Ăn uống chính là đưa các chất ngoại lai vào cơ thể. Nếu đưa vào cho đúng cách, cơ thể sẽ được bồi dưỡng đầy đủ, hoạt động tốt. Nếu không cho đúng cách, hoặc quá nhi
06/10/2010(Xem: 17585)
Ngày nay, khái niệm An cư kiết hạ không còn xa lạ với những người đệ tử Phật. Theo Tứ phần luật san bổ tùy cơ yết ma (q.4) giải thích nghĩa lý an cư như sau: “Thân và tâm tĩnh lặng gọi là an. Quy định thời gian ở một chỗ gọi là cư”.
06/10/2010(Xem: 9080)
Ngày Đức Thế Tôn dạy: “ không bao lâu nữa Ta sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn” Ngài A Nan lòng buồn vô hạn, với những nỗi lo hết sức chân tình, lo Phậtđi rồi lấy ai nương tựa, lo Phật không còn ai là người lèo lái con thuyền Phật Pháp, lo cho sự truyền thừa đạo mạch Phật Giáo mai sau.
05/10/2010(Xem: 8697)
Người tham muốn danh vọng, thì suốt đời giong ruổi theo quyền cao, chức trọng, danh thơm tiếng tốt. Họ bằng mọi thủ đoạn để lòn cúi hết chỗ này đến chỗ khác, cố mong được địa vị cao sang. Họ lao tâm, khổ trí, tìm đủ mọi cách để nắm giữ cho được cái danh vọng, hư ảo nhằm đạt được quyền lợi tối cao.
03/10/2010(Xem: 8708)
Người tham muốn ăn uống ngon hợp khẩu vị, thì suốt đời lân la bên cạnh những món ngon vật lạ, quanh quẩn bên những tiệc tùng, tìm khoái khẩu trong những rượu ngon, vị lạ nên phải giết hại nhiều các loài vật để bồi bổ cho mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]