Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát nguyện Tịnh Khẩu

07/04/201508:00(Xem: 10757)
Phát nguyện Tịnh Khẩu

bai cua hoa lan (1)


Như một làn điện chớp sẹt ngang đầu khi thiên hạ nghe tin khó tưởng, cô Hoa Lan lắm lời vừa phát nguyện Tịnh Khẩu. Vâng, chuyện có thật các bạn ạ! Chẳng những Hoa Lan mà còn cả hơn 50 giới tử tham dự buổi Thọ Bát Quan Trai do thầy Hạnh Bảo hướng dẫn tại chùa Linh Thứu.

        Điểm đáng chú ý của buổi thọ giới này là thầy Hạnh Bảo đã thực hiện được tâm nguyện của các vị Thầy truyền giới từ xưa đến nay, biến cái “chợ chồm hổm“ thành một đạo tràng thanh tịnh trong một ngày một đêm bằng một tấm bảng nhỏ dán trên ve áo của mỗi giới tử, với hàng chữ viết thật rõ ràng: Ngày Thọ Bát Quan Trai Giới, phát nguyện TỊNH KHẨU.

Ai gặp các giới tử đi phất phơ trong sân chùa, định tới chào hỏi thăm sức khỏe, ta cứ việc cười mỉm chi rồi chỉ chỉ vào tấm bảng dán trên áo là thiên hạ sẽ cười lại đáp lễ rồi biến ngay tại chỗ, trả lại cho ta cái thanh tịnh có sẵn tự ngàn xưa.

Cách đây 2 năm trong buổi Thọ Bát tại chùa Linh Thứu thầy Hạnh Tấn đã đưa ra dự án “dán bảng Tịnh Khẩu“ với đầy đủ chi tiết, thế mà thủ tục hành chánh kéo dài đến bây giờ mới được chấp hành nghiêm chỉnh các bạn ạ!

Vì là báu vật nên thầy Hạnh Bảo phải cất chúng trong một túi gấm thêu chỉ vàng, trịnh trọng sau buổi lễ truyền giới Thầy cho người đem phát tận tay từng giới tử. Tuy nhiên đấy chỉ là hình thức, một tấm bảng vô tri, vô giác làm sao một sớm một chiều có thể thay đổi được cả một tập quán “ham nói“ của chúng sanh. Do đó Thầy chế mốt mới bắt từng giới tử phải học thuộc lòng một đoạn kinh hay một bài Sám Nguyện nào đó để ngày mai trước giờ xả giới sẽ khảo bài trước đại chúng. Ôi thôi! Cả chánh điện nhốn nháo, các bác bô lão đòi miễn dịch, viện cớ lớn tuổi không còn khả năng thu nhập. Nhưng cho dù ai kia có nói ngả nói nghiêng, thầy Hạnh Bảo vẫn đứng vững như kiềng ba chân.

Sau cùng có màn thương lượng giữa các giới tử và Thầy truyền giới cho hợp với khả năng của từng vị, ai ai cũng hài lòng. Cô Thiện Giới bị Thầy chiếu tướng hơi nhiều, trước tiên bắt đọc lời nguyện thứ sáu của Ngài Quán Âm.

Trời ạ! Ngày thường cô ấy vẫn ba hoa chích chòe khoe khoang đủ điều, nào là mỗi ngày đều lạy 12 Lời Nguyện của Quán Âm Như Lai. Mong học hạnh Từ Bi và Nhẫn Nhục của Ngài để chống trả với người chồng Bồ Tát nghịch duyên của mình. Thế sao hôm nay mặt ngẩn tò te trước đại nguyện từ bi hỷ xả của Ngài, may sao có bác Từ Lương nhắc tuồng: Nam Mô đại từ bi, hành hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. Thế là cô Thiện Giới bị bắt học cho nhuyễn 12 Lời Nguyện, không còn thì giờ và tâm trí để đấu chuyện phiếm với thiên hạ.

Kể từ đó sân chùa trở nên khởi sắc, trong các giờ nghỉ các giới tử tay cầm quyển kinh “Thiền Môn Nhật Tụng“ loại bỏ túi, đi tới đi lui chăm chỉ học bài. Tà áo tràng phất phơ trước gió, dáng đi chậm rãi đoan trang, ánh mắt đăm chiêu thả hồn vào tiếng nhạc lời kinh. Giống như hình ảnh của Chúc Anh Đài trong phim bộ của Trung quốc thời xa xưa, hay các nàng nữ sinh Đồng Khánh của cố đô Huế ngày xưa. Có người mải lo học đến quên cả giờ Quá Đường để đại chúng chờ mong.

  
bai cua hoa lan (2)

Buổi chiều đến giờ thuyết giảng mới thật hào hứng, thầy Hạnh Bảo với tài ăn nói, như trong cung chiếu mệnh có sao “Tứ lợi khẩu“ làm lung lạc lòng người. Không ai có thể ngủ gật trong giờ Thầy đăng đàn truyền giới hay thuyết Pháp, chỉ lo ngồi nghiêm chỉnh để ôm bụng cười hoài.

Vì mải lo cười nên tôi không nhớ chủ đề bài giảng của Thầy một cách tổng quát, chỉ nhớ mang máng vài điểm trích đoạn để kể lại cho các bạn không được tham dự khỏi tiếc thầm mà thôi.

Để bài viết được mạch lạc, tôi chia bài giảng của Thầy ra làm truyện dài nhiều tập, gồm ba hồi bốn hiệp. Từ lúc ngày xưa còn bé chưa đi tu nghịch ngợm như thế nào, đến lúc tu được 10 năm trở về độ gia đình làm sao? Sẽ theo thứ tự lớp lang ngược xuôi kiểu nào cũng được, miễn sao các bạn hiểu được thì thôi.

Ngày Thầy về quê thăm gia đình sau 10 năm tu hành khổ hạnh, người ta áo gấm về làng phần Thầy chỉ có 3 Y một bình bát và một bình thủy đựng nước sôi để pha trà. Các anh chị lớn của Thầy sau bao năm lăn lộn với dòng đời, đã trải qua nhiều cuộc biển dâu từ đỉnh cao hạnh phúc đến vực thẳm của tình yêu.

Họ đang chờ đợi Thầy cho một bài Pháp cao siêu để soi đường chỉ lối cho họ thoát ra khỏi cơn bĩ cực của cuộc sống hiện thời.

Người anh lớn chỉ có một ước mơ sẽ trở thành đại gia, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, như bao nhiêu con người trên cái thế giới ta bà này. Nhưng cuộc đời có thịnh ắt có suy, người anh sau nhiều năm tháng gây dựng cơ ngơi, đã bắt được cơn sóng thần “phá sản“ làm dã tràng sóng cuốn trôi đi.

Người chị cả đang đau khổ vì tình, mặc dù chị đã lấy được người mình yêu. Cái người hào hoa phong nhã ấy đã có một thời theo đuổi chị ráo riết, đã chết mê chết mệt vì chị, đã nhờ Thầy làm chim nhạn trao thơ và nhờ đó Thầy có tài lộc để mua kẹo bánh giải sầu. Thế mà bây giờ tình đã bay xa theo một bóng hồng nào khác.

Thầy Hạnh Bảo chỉ tặng ông anh bà chị của Thầy câu Niệm Phật. Họ phản đối ào ào, tưởng Thầy tu lâu có thần thông biến hóa ra tiền hay sai khiến ông anh rể tung cánh chim tìm về tổ ấm, chứ ngồi không niệm Phật sao thụ động quá đi thôi! Thầy chỉ nhẹ nhàng bảo:

-        Người anh niệm Tiền sẽ được Tiền bạc (bạc đây là bạc bẽo, bạc trắng như vôi ấy). Người chị niệm Tình sẽ được Tình phụ. Còn Thầy niệm Phật sẽ được gặp Phật, chỉ đơn giản thế thôi.

Qua đến hiệp hai, chuyện Thầy về quê đi từ thiện với nghệ sĩ Kim Cương, người chỉ cần đọc qua kịch bản đã nhập vai khóc sướt mướt. Nhắc đến cô nghệ sĩ Kim Cương tôi phải nhớ ngay đến kẻ tình si nhà thơ “điên“ Bùi Giáng. Chữ điên phải được nằm trong nháy nháy, vì cái gì ta xử trí hơi khác người cho dù đúng hay sai đều được thiên hạ tặng cho chữ điên và tống vào nhà thương điên Biên Hòa. Ở trong môi trường đó người không điên cũng biến thành điên, do đó chuyện nhà thơ Bùi Giáng điên hay tỉnh chỉ có chính đương sự mới biết mà thôi.

        Theo lời kể của cô Kim Cương thì những người theo đuổi cô ráo riết chỉ thuộc diện “điên nặng“, kẻ tình si Bùi Giáng thuở ấy cứ chờ đến đêm ba mươi là trồng cây si hằng giờ trước cửa nhà cô, chờ sáng mùng một vào xông nhà chúc Tết với những bài thơ kiểu “Khi người điên biết yêu“:

        Cô Kim Cương ơi,

        Nếu ngày sau tôi chết đi, mà cô không giỏ cho một giọt nước mắt.

        Thì cô có thể giỏ cho một giọt nước... cũng được

        (Nhớ giỏ ngay trên nấm mồ)

        Ở dưới suối vàng tôi sẽ ngậm cười mà đón nhận.

        (Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây)

 

Không biết Kim Cương Nương Tử của ông nghĩ gì về bài thơ không thể nào tưởng tượng nổi như thế này?

        Về nghệ thuật kể chuyện vui thầy Hạnh Bảo có sẵn từng bồ, kể hoài không hết. Câu chuyện một bà Phật tử ở bên Mỹ nhìn lầm thầy Hạnh Bảo ra sư phụ của Thầy vì tướng mạo hai người hơi giống nhau, rồi săn đón suýt xoa lễ bái cúng dường rất trân trọng. Đến khi nhận ra sự thật, bà ta quay lưng không ngó ngàng gì đến Thầy nữa, làm Thầy tủi thân biết mấy.

        Một câu chuyện thuộc loại Có cảm có ứng khi ta niệm Quán Âm do Thầy kể, làm tôi phải suy nghĩ không hiểu chuyện có thật hay là cổ tích.

        Ở một ngôi làng hẻo lánh nọ, có một bà cụ rất tin tưởng vào Bồ Tát Quán Âm, cụ niệm danh hiệu Ngài ngày đêm không nghỉ và với lòng tin kiên cố cụ nghĩ, bất cứ tình huống nào xảy đến, cụ chỉ cần gọi là Ngài sẽ đến cứu cụ ngay.

       Hôm đó trong làng bị một trận bão lớn, cỡ cơn bão số 9, nước ngập đến chân và có khuynh hướng dâng lên từ từ. Người hàng xóm sang tận nơi khuyên cụ nên di tản, nhưng cụ nhất định không đi vì nghĩ có chuyện gì xảy ra Quán Âm sẽ đến cứu cụ ngay không việc gì phải sợ. Ngày hôm sau nước ngập đến tận lưng, mọi người trong làng đã cao chạy xa bay từ lâu, chỉ còn bà cụ ngồi niệm Quán Âm một cách chí thành! Một chiếc thuyền chèo ngang đón cụ, dục dã liên hồi nhưng cụ vẫn bình chân như vại chờ Quán Âm tới rước mới chịu đi. Qua đến ngày thứ ba nước đã ngập đến đầu, cụ phải leo lên mái nhà để niệm Quán Âm, trên bầu trời xuất hiện một chiếc trực thăng với giây thang thòng xuống, yêu cầu cụ leo lên. Vì không thấy Quán Âm đến đón nên cụ vẫn kiên trì ở lại, dĩ nhiên cụ già bị nước cuốn đi hui nhị tỳ một cách ngon ơ.

        Xuống tới cửu tuyền, cụ làm đơn gửi Diêm Vương để kiện Bồ Tát Quán Âm với tội trạng, không giữ lời hứa đến cứu cụ, trong khi cụ đã hy sinh cả đời để niệm danh hiệu Ngài. Mặc dù rất bận rộn trong công việc cứu khổ, cứu nạn chúng sanh, Bồ Tát Quán Âm vẫn xuất hiện đúng giờ trước phiên tòa xét xử.

        Ngài phất nhẹ nhành dương liễu trước thinh không, rồi nhẹ nhàng cười bảo:

        - Ta có đến cứu ngươi 3 lần mà nhà ngươi cứng đầu không chịu theo, biết làm sao đây!

        Pháp của thầy Hạnh Bảo là như thế đó, pháp này rất dễ hiểu sẽ đi sâu vào quần chúng một cách dễ dàng.

        Nhờ tấm bảng phát nguyện Tịnh Khẩu đeo trên ve áo mỗi giới tử, cộng thêm trách nhiệm phải học thuộc bài để mai Thầy truyền giới khảo hạch, đạo tràng thọ bát lần này rất thanh tịnh, không có trò tụ năm tụ ba lại nói chuyện phiếm. Nhiều khi còn quá tích cực như đến giờ chỉ tịnh rồi, còn có người chong đèn trên giường để học cho nốt đoạn kinh Chú Đại Bi.

       
bai cua hoa lan (3)

Phần tôi cũng chẳng khá gì hơn, trong giấc mơ vẫn còn lẫn lộn lời nguyện nọ chập sang lời nguyện kia.

        Sáng hôm sau chương trình vẫn như thường lệ, công phu khuya xong đáng lẽ các giới tử phải ra sân để vận động tay chân, múa một vài màn Tài Chi cho khỏe. Nhưng hôm nay sân chùa lại vắng lặng, chỉ thấy các hình ảnh của Chúc Anh Đài hay các nữ sinh Đồng Khánh cầm quyển kinh đi phất phơ qua lại, mặt rất đăm chiêu vì sợ chưa thuộc hết bài.

        Cái gì đến sẽ đến, giờ khảo bài đã điểm. Ban giám khảo gồm các Ni Sư Linh Thứu, Ni Sư Hương Sơn và dĩ nhiên vị chánh chủ khảo là thầy Hạnh Bảo.

        Các bạn ơi! Thầy ghi sổ hết cả rồi, ai nhận học bài bản nào là trả bài ngay tại chỗ, không trốn tránh vào đâu được.

        Ai thuộc bài sẽ được một tràng pháo tay tán thưởng của đại chúng và một món quà nhỏ của các Ni Sư tận tay trao tặng, một xâu chuỗi hạt hay một tượng Phật để treo. Chắc là Phật độ hay sao mà ai cũng trả bài một cách lưu loát, nhiều hay ít tùy theo căn cơ  và sự dụng công của chính mình.

        Người được tán thưởng nhiều nhất là bác Từ Lương với 48 Lời nguyện của Phật A Di Đà, hỏi bất chợt lời nguyện nào từ dưới đi lên hay từ trên đi xuống bác vẫn đọc được một cách mạch lạc.

        Buổi lễ xả giới kết thúc khóa tu cho một lời phát nguyện Tịnh Khẩu, tuy chỉ có một ngày một đêm thôi, nhưng sẽ là những viên gạch khởi đầu xây dựng cho ngôi nhà Phật Pháp tương lai trong mỗi chúng ta.

        Chúc các bạn một ngày vui.

 

        Hoa Lan.

Mùa Thu 2009.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 5412)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10420)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9231)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6527)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8910)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5096)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5290)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5722)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4589)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5175)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]