Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần nhập thế độ sinh

06/04/201508:27(Xem: 8840)
Tinh thần nhập thế độ sinh


chua_thienkhanh_05


TINH THẦN NHẬP THẾ ĐỘ SINH
VÀ XUẤT THẾ GIẢI THOÁT CỦA CƯ SĨ PHẬT GIÁO
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRỢ NIỆM TẠI ĐÀI LOAN



Thích Giải Hiền

Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội

Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức

(Dịch từ tham luận của cư sĩ Trần Thanh Hán – Chủ tịch Hội cư sĩ Phật Giáo Đài Loan

 tại diễn đàn cư sĩ Phật Giáo thế giới lần thứ 4)




1. Lời mở đầu

    Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.

2. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng phát dương pháp môn trợ niệm tại Đài Loan

          Cư sĩ Tiền Học Mẫn - Phó chủ tịch tiền nhiệm Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan (Trí Mẫn Kim Cang thượng sư) và phu nhân là cư sĩ Chu Tĩnh Hoa (Huệ Hoa Kim Cang thượng sư) là hai vị sáng lập và trụ trì tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, là trụ sở của toàn thể hội viên Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan, bắt đầu hoạt động khai đàn hoằng dương Phật Pháp từ năm 1980. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng là một đoàn thể cư sĩ Phật Giáo tu hành dung hợp hiển - mật giữa truyền thừa cổ phái Ninh Mã Ba của Mật Tạng cùng với tinh hoa các tông phái Thiền Đại Thừa Trung Hoa, Mật tông và Thiên Thai tông; trong đó, hạt nhân của pháp môn tu trì là coi trọng sự khai triển Bồ Đề tâm và thực tiễn hành Bồ Tát đạo tự giác giác tha, tự độ độ tha để đạt được Phật quả giác hạnh viên mãn, cũng chính là mục tiêu cuối cùng hành Bồ Tát đạo của cư sĩ học Phật tại gia.

          Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa vì bi tâm lân mẫn chúng sinh sinh tử trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà không được giải thoát. Mặt khác, trong hoàn cảnh 30 năm trước ở Đài Loan, pháp môn trợ niệm chưa được truyền bá rộng, phong tục địa phương thủ cựu khiến đa số dân chúng chưa có quan niệm chính tín Phật Pháp đối với những nghi thức lúc lâm chung; người sau khi chết theo truyền thống tín ngưỡng của từng nhà hoặc phong tục địa phương mà tổ chức tang lễ. Hai vị cảm nhận sâu sắc “thân người khó được” lại muốn thực hiện lợi ích thực tiễn của Phật Pháp vào trong đời sống văn hóa xã hội, không để mất đi cơ hội hiếm có được làm người, hi vọng có thể giúp đỡ những người mất ngay lúc lâm chung trong đời hiện tại có được cơ hội được Phật tiếp độ sau cùng, nên dốc sức cùng các vị đệ tử thành lập đoàn trợ niệm.

          Trong suốt thời gian 30 năm hoạt động, Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng đã trợ niệm cho nhiều người vãng sinh. Tính từ năm 2010 đến 12/2014, trung bình mỗi năm hội tiến hành trợ niệm cho hơn 10.000 người, chiếm khoảng 7% số người mất toàn Đài Loan. Bài viết phân tích hoạt động trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, chứng minh trợ niệm là một pháp môn tu trì Bồ Tát đạo hàm chứa cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của người cư sĩ Phật Giáo.

3. Pháp môn trợ niệm đầy đủ tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của Lục độ Bồ Tát đạo.

    Hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng khai thị với hội viên đoàn trợ niệm rằng: “Bồ Tát độ sinh có muôn ngàn phương pháp, nhưng không pháp nào nhanh chóng, phương tiện, thù thắng, triệt để, cứu cánh, đại chúng, ít tốn lực mà thành tựu lớn bằng pháp trợ niệm lúc lâm chung để vãng sinh Tịnh độ.” Do đó, có thể thấy được rằng trợ niệm lúc lâm chung không chỉ là phương tiện nhập thế của Bồ Tát bi mẫn chúng sinh mà đồng thời cũng là vì tự độ độ tha vãng sinh Tịnh độ, triệt để hoằng dương pháp môn tu trì giải thoát cứu cánh này.

Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa cũng từng khai thị: “Trợ niệm là phương pháp độ sinh trực tiếp và hữu hiệu nhất, là cùng tu Lục độ Ba-la-mật, là pháp thù thắng nhất thể dụng song tu, công đức làm được ngày thường không bằng 1/10 so với trợ niệm. Sao lại nói trợ niệm là pháp môn cùng tu Lục độ Ba-la-mật? Vì người mà trợ niệm, tức Pháp thí; thanh tịnh thân, khẩu, ý để trì chú độ tha nhân, tức là trì giới; bất luận thân tâm có mệt mỏi cũng vẫn an nhẫn vì người trợ niệm, tức hành nhẫn nhục; lúc trợ niệm không sinh vọng tưởng, một lòng vì muốn lợi tha, tức là tinh tấn; an trú nơi tam thân mà tu (pháp, báo, hóa), tức là Thiền định thậm thâm; tam luân thể không, như huyễn quán tha nhân vãng sinh nước Phật A Di Đà, biết Tây phương chẳng lìa tự tánh, tức là trí tuệ vô thượng. Do đó nói vì người mất trợ niệm thực là cùng tu Lục độ, công đức lớn nhất.”

Dưới đây sẽ phân tích cụ thể hơn trợ niệm chính là thực tiễn Lục độ Bồ Tát đạo, bao hàm tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát:

  1. Trợ niệm tức bố thí Ba-la-mật: Pháp bố thí có thể đối trị bệnh keo kiệt, tham lam. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng từ ngày thành lập đoàn trợ niệm đến nay hoàn toàn không thu bất kỳ chi phí nào, những hội viên trợ niệm là xả bỏ thời gian, tinh thần, sức lực mưu cầu tiền tài, lợi ích thế gian của chính mình để phụng hiến vì người mà trợ niệm. Đồng thời cũng vì người mà tự cung cấp các Pháp bảo của Phật môn như đồ đạc trợ niệm, máy niệm Phật, kim cang sa, đó chính là tài thí. Chẳng luận tu hành nông sâu chỉ cần phát tâm Bồ Đề vì người mất trì tụng thánh hiệu A Di Đà Phật và lục tự đại minh chú của ngài Quán Âm tức thì cảm ứng đạo giao, người mất được Phật lực gia bị sinh về cõi nước Cực Lạc hoặc đạo nhân thiên, đó chính là Pháp thí. Lại trong Kinh Địa Tạng nói: người lâm chung mà nghe một lần danh hiệu Phật, tức sẽ không bị đọa ba đường ác, như vậy khiến người mất tránh xa sợ hãi của đường ác, đó chính là vô úy thí .
  2. Trợ niệm tức trì giới Ba-la-mật: Trì giới chính là để đối trị với các pháp ác, như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “nhiếp tâm chính là giới”. Lúc trợ niệm, yêu cầu người trợ niệm phải chuyên chú niệm Phật, như vậy về mặt giới luật mà nói thì không trì mà như trì, thân, khẩu, ý tự nhiên tránh xa thập ác, không tạo ác nghiệp. Do đó, người trợ niệm ba nghiệp thanh tịnh, một lòng lợi tha, tương ứng với tâm Bồ Đề trì giới thù thắng.
  3. Trợ niệm tức nhẫn nhục Ba-la-mật: nhẫn nhục là để đối trị với sân hận. Những vị hội viên tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng thời kỳ đầu phát khởi pháp môn trợ niệm thường gặp phải chướng duyên là thân quyến người mất ý kiến bất đồng, đến nơi lại bị từ chối, thậm chí đang tiến hành bị mời đi về, lại có khi bị thân quyến người mất ở bên cạnh tranh chấp, hoặc tiếp đãi lạnh nhạt… nhưng những vị phát tâm vẫn nhẫn nại nhu hòa khuyên giải lấy việc giúp đỡ người vãng sinh làm trọng, đồng thời vẫn tiếp tục trợ niệm, thuyết phục thân quyến người mất cùng đến trợ niệm, lại không kể mưa gió nóng lạnh, thân tâm có mệt hay không vẫn tận tâm tận lực, đó chính là tu nhẫn nhục Ba-la-mật.
  4. Trợ niệm tức tinh tấn Ba-la-mật: tinh tấn là để đối trừ với giải đãi, lười biếng. Dũng mãnh tinh tấn có thể thành tựu viên mãn các thiện pháp. Người trợ niệm tức học hạnh Bồ Tát xả bỏ hết thảy những việc không liên quan đến giải thoát sinh tử, xa rời sự phóng dật, một lòng làm việc lợi ích cho người chẳng kể ngày đêm. Đoàn trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng có thể trợ niệm bất cứ lúc nào không kể ngày đêm sáu thời, rất nhiều vị hội viên ban ngày đi làm, công việc mệt nhọc nhưng vẫn tinh tấn không từ nan, đó chính là vì độ chúng sinh mà tinh tấn không giải đãi.
  5. Trợ niệm tức Thiền định Ba-la-mật: Thiền định là để đối trừ tâm tán loạn. Lúc trợ niệm, người trợ niệm nhiếp tâm vào Phật, không khởi vọng tưởng, sáu căn đều nhiếp, chỉ trụ vào một cảnh giới duy nhất A Di Đà Phật mà hành đại bi lợi tha, tương ứng với hóa thân Phật; trong thì xả vọng niệm, tịnh niệm tương tục, khế hội với trí tuệ diệu tướng vô lượng quang, vô lượng thọ, tương ứng với báo thân Phật A Di Đà; nếu như người trợ niệm có thể niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, nhập Tam-ma-địa, tức tương ứng với pháp thân Phật A Di Đà, đó chính là Thiền định thậm thâm. Trong quá trình trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, người trợ niệm khai thị người mất: “nhất tâm tưởng tượng hình tướng đức Phật A Di Đà, giống như ánh quang minh của mặt trăng trong nước không có thực thể, ánh quang từ nơi tâm đức Phật A Di Đà chiếu phóng bao quanh (người vãng sinh). (người vãng sinh) cần biết rằng những chuyện xảy ra trong đời đều như trong giấc mộng nên xả bỏ hết thảy, không phải nghĩ tưởng bận tâm về nó. Thành tâm thành ý cầu đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh về cõi nước Cực Lạc, rồi đi vào trong ánh quang minh nơi đức Phật A Di Đà, dung hợp làm một với ánh quang minh ấy.”  Người trợ niệm nên biết pháp quán tưởng niệm Phật, đồng thời hướng dẫn người mất an trú trong ánh Phật quang của Phật A Di Đà, đó chính như Thiền định Ba-la-mật.
  6. Trợ niệm tức Bát-nhã Ba-la-mật: trí tuệ Bát-nhã để đối trị với ngu si. Trong lúc trợ niệm, người trợ niệm đối diện với quả báo cuối cùng của người mất, chính là cơ duyên để quán sinh tử vô thường, tức trong lúc vì người trợ niệm mà thể hội được yếu chỉ “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã” mà buông bỏ hết thảy chấp trước hư vọng. Lại lúc niệm Phật tuy quán tưởng quang minh Phật Di Đà biến chiếu mà tiến một bước thể hội tướng mà vô tướng, thể tính bản không, năng niệm là ta (bản thể), sở niệm là người vãng sinh (đối tượng) đều là như huyễn, rồi cũng như huyễn mà quán người mất vãng sinh cõi nước Cực Lạc. Tức là tam luân thể không (bản thể - ta, đối tượng - người và hình tướng - pháp đều không vướng mắc), quán ngược biết cõi nước Cực Lạc chẳng ngoài tự tánh mà hiển hiện, cũng chính là thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật.

          Các vị trong đoàn trợ niệm của tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng khi trợ niệm khai thị với người mất rằng: “trên thế gian hết thảy cũng chỉ là một giấc mộng nên mời (người vãng sinh) hãy buông bỏ hết thảy chấp trước và ái hận với mọi người, mọi sự việc trong lòng, đừng lưu luyến gì nhục thân và thế giới này cả. Bất luận bây giờ hoặc tương lai nhìn thấy thứ gì cũng cần biết đó tất cả đều là huyễn tướng phản ánh từ trong tâm mà ra, giống như người nằm mơ nên đừng mê hoặc; nhất định không được có bất cứ tâm niệm tham cầu, oán hận, chấp trước không xả bỏ gì, mà phải giữ một tâm niệm lương thiện, kiền thành trong lòng.”

          Thế gian hết thảy đều là mộng huyễn, không gì mang theo được nên nhất định phải buông xả mà toàn tâm niệm Phật, trì chú, mới có thể mong được chư Phật tiếp dẫn. Bất luận gặp cảnh giới kinh hãi hay hỷ ái gì cũng cần nhớ đó đều chỉ là những huyễn tướng trong tâm, không phải là thực. Tuyệt không được sinh tâm tham ái, oán hận, mê hoặc, ngạo mạn, hoài nghi, tật đố trong lòng; không truy cầu gì, cũng không chạy trốn, một lòng một ý niệm Phật, trì chú.

          Những khai thị trên như Kinh Kim Cang  nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Khiến cả người trợ niệm và người vãng sinh trong giờ khắc sinh tử vô thường đó đều thể hội được chân lý Bát-nhã chư pháp như huyễn mà buông bỏ hết thảy chủng chủng chấp trước vọng tướng, vọng tưởng.

      4. Lời kết      

          Kinh Lăng Nghiêm có nói: “tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ Tát phát tâm; tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai ứng thế.” – tức: chưa độ được mình mà đã độ người khác trước, đấy chính là sự phát tâm của hàng Bồ Tát; tự giác đã viên mãn, lại còn có thể giác ngộ người khác thì là bậc Như Lai xuất hiện trong cõi đời. Phật đệ tử phát Bồ Đề tâm hành Bồ Tát đạo, lúc chưa chứng thánh vị thì lực không đủ, muốn bằng sức mình để độ sinh sợ rằng kiếp dài vẫn chưa viên mãn; nhưng may thay có 48 nguyện đại từ bi của đức Phật A Di Đà, lúc sắp mất nhất tâm xưng danh nhớ niệm tức đắc đới nghiệp vãng sinh. Do đó, tuy người chưa chứng thánh vị nhưng phát tâm Bồ Đề vì tha nhân mà kiền thành trợ niệm, nếu người lâm chung có thể theo đó niệm Phật giống như sắp chìm mà gặp bè gỗ, kiên trì từng niệm đến cùng cầu sinh Tịnh độ tức thì cảm ứng đạo giao, trượng nhờ Phật nguyện mà vãng sinh Tây bang Lạc quốc; tức phàm phu nhờ nguyện lực Phật mà hành chuyện Như Lai độ hóa.

          Thực như lời hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng nói: “độ một người vãng sinh Tịnh độ tức thành tựu một đức Phật. Độ trăm nghìn người vãng sinh Tịnh độ tức trăm nghìn người thành Phật. Phàm phu chúng ta nếu muốn độ một người thành Phật, có lẽ nghìn đời vạn kiếp vẫn khó thành, nhưng nay có phương pháp giản đơn khiến chúng ta có cơ hội lợi ích chúng sinh, độ người đến nơi cứu cánh sau cùng, đồng thời cũng thành tựu công đức vãng sinh sau này của chính mình. Đó không đáng để chúng ta dốc sức nỗ lực sao?”

          Pháp trợ niệm thực là pháp môn thù thắng bao hàm cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát, đáng được mỗi vị hành giả hành Bồ Tát đạo chú tâm phụng hành và thực hiện.

 

Bảng thống kê trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng tại Đài Loan,

2010 - 2013

Năm

2010

2011

2012

2013

Số người trợ niệm (người)

25441

27203

28780

30374

Số người mất (người)

10246

10907

11262

11348

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/11/2017(Xem: 11764)
Các đối tượng vật chất mà chúng ta nhìn thấy là tương đối chứ không có một thực tại khách quan; chúng là những biểu hiện của tâm. Chúng có mặt trong những hiện khởi cảm giác của tâm. Không có thực tại riêng biệt nằm ở đâu đó bên ngoài.
21/11/2017(Xem: 13118)
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyện cứu độ chúng sanh, vị Phật gần gũi trong tâm tưởng Phật tử khắp năm châu bốn biển, bất luận mầu da, tiếng nói, bất luận giầu nghèo, sang hèn, bất luận nam nữ, già trẻ ….
21/11/2017(Xem: 7821)
Mưa nhẹ trong đêm. Lắng tai thật kỹ mới nghe được tiếng rơi tí tách bên ngoài qua khung cửa kiếng đóng kín. Hàng cây cao rũ lá ướt trên các nhánh khô gầy đầu thu. Đèn đường lặng soi trên những vũng đọng. Côn trùng im tiếng. Không có tiếng đập cánh của chim đêm. Không có tiếng chân người dẫm xào xạc trên lá. Cũng không có tiếng động cơ nào của xe cộ trên đường. Hơi thở nhẹ như tơ trời. Nhẹ như hư không.
14/11/2017(Xem: 11790)
Dưới đây là bài phỏng vấn Giáo sư Trung Quốc Ji Zhe (汲 喆/Cấp Triết) về tình trạng Phật giáo ngày nay tại quê hương của ông. Bài phỏng vấn được đăng trên nhật báo "Le Monde" của Pháp ngày 9 tháng 9 vừa qua với tựa: "Đức Phật mặc áo màu đỏ" (Bouddha en habit rouge), và đồng thời cũng được đưa lên trang mạng của tờ báo này, nhưng lại mang tựa khác: "Tại Trung Quốc, chính quyền công cụ hóa Phật giáo đổi mới" (En Chine, le pouvoir instrumentalise le renouveau bouddhiste).
10/11/2017(Xem: 8811)
Trong các tổ chức, cộng đồng, quốc gia trên thế giới, nơi nào cũng có phép tắc luật lệ riêng mà thành viên thuộc các tổ chức đó hay người dân thuộc cộng đồng hay quốc gia đó bắt buộc phải tuân thủ. Mục đích của luật lệ là nhằm giữ cho cộng đồng có được trật tự, ngăn ngừa giảm thiểu những tai ương tội ác do kẻ xấu cố tình gây ra.
05/11/2017(Xem: 7847)
Hành Trình Về Con Đường Giáo Dục Của Phật Giáo, Nếu nói về việc học, việc tu của chư Tăng Ni Phật Giáo thì tự ngàn xưa Đức Phật đã là một bậc Thầy vĩ đại đảm trách làm một Hướng đạo sư cho mọi người quy về. Trên từ những vị xuất gia, dưới đến vua, quan và thứ dân, ai ai cũng một lòng quy ngưỡng về giáo lý thậm thâm vi diệu ấy. Mục đích chính của việc tu tập là thoát ly khỏi cảnh giới khổ đau nầy, để trở về với bản lai diện mục thanh tịnh, giải thoát của mỗi người. Đức Phật cũng đã từng nói rằng: “Ta chỉ là một Đạo Sư”, nghĩa là một kẻ dẫn đường. Kẻ dẫn đường ấy chính là Thầy của chúng ta và bất cứ ai trong đời nầy dẫn được ta đi vào Đời hay vào Đạo đều là Thầy của chúng ta cả.
30/10/2017(Xem: 11589)
Giữa tháng 9 năm 2017, chúng tôi đi Paris, nước Pháp, để thăm gia đình và bạn bè, đã 10 năm chưa có dịp gặp lại. Thi và tôi đã để ra 3 ngày đi thăm vợ chồng người bạn của Thi khi còn học ở trường Trung học Gia Long - Saigon, vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960. Chị Hồng và anh Ngọc đang ở tại thành phố Oberhausen. Đây là thành phố nằm trong vùng kỹ nghệ sông Ruhr thuộc tiểu bang NordRhein- Westfalen, phía Tây-Bắc nước Đức.
30/10/2017(Xem: 10218)
Dưới đây là bài viết của Lạt-ma Denys tóm lược một số các bài thuyết giảng của chính tác giả tại ngôi chùa Tây Tạng Karma Ling, tọa lạc trong vùng núi Alpes trên đất Pháp. Bài viết nêu lên một sự hiểu biết mang một tầm quan trọng vô song trong Dharma/Đạo Pháp của Đức Phật, đó là khái niệm "Tương liên, tương tác và tương tạo" giữa tất cả mọi hiện tượng dù vô hình hay hữu hình, thuộc thế giới bên ngoài hay bên trong tâm thức một cá thể. Tiếng Pa-li gọi khái niệm này là Paticca-samuppada, tiếng Phạn là Pratitya-samutpada, tiền ngữ "pratitya" có nghĩa là "lệ thuộc vào" [một thứ gì khác], hậu ngữ "samutpada" có nghĩ là "hiện lên" hay "hình thành"..., Các ngôn ngữ Tây Phương gọi khái niệm này là: Interdependence, dependent origination, dependent arising, dependent co-production, conditioned co-production, conditioning co-production, v.v.; kinh sách Hán ngữ gọi là "Lý duyên khởi". Có thể tạm dịch sang tiếng Việt là "Nguyên lý tương liên, tương tác và tương tạo", tuy nhiên cũng có thể gọi vắn
27/10/2017(Xem: 10523)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ. Nhỏ như chuyện bất hoà khó chịu xảy ra liên tục với người xung quanh. Nhỏ như yêu thương người này ghét bỏ người kia một cách tự nhiên, hay người này cực khổ chăm sóc nuôi dưỡng người kia mà bị người kia càm ràm nặng nhẹ gây khó dễ hết chuyện này sang chuyện khác, hoặc chính bản thân mình đau ốm bệnh hoạn triền miên chạy chữa khắp nơi mà không dứt bệnh. Lớn như chuyện con cái trong nhà không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, ra ngoài xã hội quậy phá phạm luật chịu cảnh tù tội khiến kẻ làm cha làm mẹ chịu nhiều lo âu và đau khổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]