Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh thần nhập thế độ sinh

06/04/201508:27(Xem: 8882)
Tinh thần nhập thế độ sinh


chua_thienkhanh_05


TINH THẦN NHẬP THẾ ĐỘ SINH
VÀ XUẤT THẾ GIẢI THOÁT CỦA CƯ SĨ PHẬT GIÁO
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG TRỢ NIỆM TẠI ĐÀI LOAN



Thích Giải Hiền

Giảng viên Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội

Hội trưởng Hội Sự Nghiệp Từ Thiện Minh Đức

(Dịch từ tham luận của cư sĩ Trần Thanh Hán – Chủ tịch Hội cư sĩ Phật Giáo Đài Loan

 tại diễn đàn cư sĩ Phật Giáo thế giới lần thứ 4)




1. Lời mở đầu

    Nghi thức trợ niệm lúc lâm chung trong Phật Giáo được các bậc cao tăng Đại Đức hoằng dương ở Đài Loan đã gần 20 năm nay, dần dần được đón nhận tích cực và phụng trì của quảng đại quần chúng trong xã hội và trong giới Phật Giáo tại Đài Loan. Nghi thức trợ niệm vốn là một phương pháp trợ duyên vãng sinh Tây Phương Cực Lạc trong Tịnh Độ tông, do các vị đại sư Ấn Quang, đại sư Hoằng Nhất cùng các vị cư sĩ đề xướng vào đầu thế kỷ 20. Năm 1951 tại Đài Loan có cư sĩ Lý Bỉnh Nam thành lập “Đài Trung Liên xã”, năm 1986 có hai vị cư sĩ Trí Mẫn và Huệ Hoa tông Viên Giác (được các Phật tử tôn kính xưng là hai vị thượng sư) thành lập Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, đem toàn lực hộ trì và phát dương nghi thức trợ niệm lúc lâm chung. Nghi thức trợ niệm dần dần trở thành pháp môn tu tập phổ biến được quảng đại dân chúng trong xã hội Đài Loan tiếp nhận và hành trì.

2. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng phát dương pháp môn trợ niệm tại Đài Loan

          Cư sĩ Tiền Học Mẫn - Phó chủ tịch tiền nhiệm Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan (Trí Mẫn Kim Cang thượng sư) và phu nhân là cư sĩ Chu Tĩnh Hoa (Huệ Hoa Kim Cang thượng sư) là hai vị sáng lập và trụ trì tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, là trụ sở của toàn thể hội viên Hội cư sĩ Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan, bắt đầu hoạt động khai đàn hoằng dương Phật Pháp từ năm 1980. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng là một đoàn thể cư sĩ Phật Giáo tu hành dung hợp hiển - mật giữa truyền thừa cổ phái Ninh Mã Ba của Mật Tạng cùng với tinh hoa các tông phái Thiền Đại Thừa Trung Hoa, Mật tông và Thiên Thai tông; trong đó, hạt nhân của pháp môn tu trì là coi trọng sự khai triển Bồ Đề tâm và thực tiễn hành Bồ Tát đạo tự giác giác tha, tự độ độ tha để đạt được Phật quả giác hạnh viên mãn, cũng chính là mục tiêu cuối cùng hành Bồ Tát đạo của cư sĩ học Phật tại gia.

          Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa vì bi tâm lân mẫn chúng sinh sinh tử trải qua nhiều đời nhiều kiếp mà không được giải thoát. Mặt khác, trong hoàn cảnh 30 năm trước ở Đài Loan, pháp môn trợ niệm chưa được truyền bá rộng, phong tục địa phương thủ cựu khiến đa số dân chúng chưa có quan niệm chính tín Phật Pháp đối với những nghi thức lúc lâm chung; người sau khi chết theo truyền thống tín ngưỡng của từng nhà hoặc phong tục địa phương mà tổ chức tang lễ. Hai vị cảm nhận sâu sắc “thân người khó được” lại muốn thực hiện lợi ích thực tiễn của Phật Pháp vào trong đời sống văn hóa xã hội, không để mất đi cơ hội hiếm có được làm người, hi vọng có thể giúp đỡ những người mất ngay lúc lâm chung trong đời hiện tại có được cơ hội được Phật tiếp độ sau cùng, nên dốc sức cùng các vị đệ tử thành lập đoàn trợ niệm.

          Trong suốt thời gian 30 năm hoạt động, Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng đã trợ niệm cho nhiều người vãng sinh. Tính từ năm 2010 đến 12/2014, trung bình mỗi năm hội tiến hành trợ niệm cho hơn 10.000 người, chiếm khoảng 7% số người mất toàn Đài Loan. Bài viết phân tích hoạt động trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, chứng minh trợ niệm là một pháp môn tu trì Bồ Tát đạo hàm chứa cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của người cư sĩ Phật Giáo.

3. Pháp môn trợ niệm đầy đủ tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát của Lục độ Bồ Tát đạo.

    Hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng khai thị với hội viên đoàn trợ niệm rằng: “Bồ Tát độ sinh có muôn ngàn phương pháp, nhưng không pháp nào nhanh chóng, phương tiện, thù thắng, triệt để, cứu cánh, đại chúng, ít tốn lực mà thành tựu lớn bằng pháp trợ niệm lúc lâm chung để vãng sinh Tịnh độ.” Do đó, có thể thấy được rằng trợ niệm lúc lâm chung không chỉ là phương tiện nhập thế của Bồ Tát bi mẫn chúng sinh mà đồng thời cũng là vì tự độ độ tha vãng sinh Tịnh độ, triệt để hoằng dương pháp môn tu trì giải thoát cứu cánh này.

Hai vị Trí Mẫn và Huệ Hoa cũng từng khai thị: “Trợ niệm là phương pháp độ sinh trực tiếp và hữu hiệu nhất, là cùng tu Lục độ Ba-la-mật, là pháp thù thắng nhất thể dụng song tu, công đức làm được ngày thường không bằng 1/10 so với trợ niệm. Sao lại nói trợ niệm là pháp môn cùng tu Lục độ Ba-la-mật? Vì người mà trợ niệm, tức Pháp thí; thanh tịnh thân, khẩu, ý để trì chú độ tha nhân, tức là trì giới; bất luận thân tâm có mệt mỏi cũng vẫn an nhẫn vì người trợ niệm, tức hành nhẫn nhục; lúc trợ niệm không sinh vọng tưởng, một lòng vì muốn lợi tha, tức là tinh tấn; an trú nơi tam thân mà tu (pháp, báo, hóa), tức là Thiền định thậm thâm; tam luân thể không, như huyễn quán tha nhân vãng sinh nước Phật A Di Đà, biết Tây phương chẳng lìa tự tánh, tức là trí tuệ vô thượng. Do đó nói vì người mất trợ niệm thực là cùng tu Lục độ, công đức lớn nhất.”

Dưới đây sẽ phân tích cụ thể hơn trợ niệm chính là thực tiễn Lục độ Bồ Tát đạo, bao hàm tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát:

  1. Trợ niệm tức bố thí Ba-la-mật: Pháp bố thí có thể đối trị bệnh keo kiệt, tham lam. Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng từ ngày thành lập đoàn trợ niệm đến nay hoàn toàn không thu bất kỳ chi phí nào, những hội viên trợ niệm là xả bỏ thời gian, tinh thần, sức lực mưu cầu tiền tài, lợi ích thế gian của chính mình để phụng hiến vì người mà trợ niệm. Đồng thời cũng vì người mà tự cung cấp các Pháp bảo của Phật môn như đồ đạc trợ niệm, máy niệm Phật, kim cang sa, đó chính là tài thí. Chẳng luận tu hành nông sâu chỉ cần phát tâm Bồ Đề vì người mất trì tụng thánh hiệu A Di Đà Phật và lục tự đại minh chú của ngài Quán Âm tức thì cảm ứng đạo giao, người mất được Phật lực gia bị sinh về cõi nước Cực Lạc hoặc đạo nhân thiên, đó chính là Pháp thí. Lại trong Kinh Địa Tạng nói: người lâm chung mà nghe một lần danh hiệu Phật, tức sẽ không bị đọa ba đường ác, như vậy khiến người mất tránh xa sợ hãi của đường ác, đó chính là vô úy thí .
  2. Trợ niệm tức trì giới Ba-la-mật: Trì giới chính là để đối trị với các pháp ác, như trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “nhiếp tâm chính là giới”. Lúc trợ niệm, yêu cầu người trợ niệm phải chuyên chú niệm Phật, như vậy về mặt giới luật mà nói thì không trì mà như trì, thân, khẩu, ý tự nhiên tránh xa thập ác, không tạo ác nghiệp. Do đó, người trợ niệm ba nghiệp thanh tịnh, một lòng lợi tha, tương ứng với tâm Bồ Đề trì giới thù thắng.
  3. Trợ niệm tức nhẫn nhục Ba-la-mật: nhẫn nhục là để đối trị với sân hận. Những vị hội viên tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng thời kỳ đầu phát khởi pháp môn trợ niệm thường gặp phải chướng duyên là thân quyến người mất ý kiến bất đồng, đến nơi lại bị từ chối, thậm chí đang tiến hành bị mời đi về, lại có khi bị thân quyến người mất ở bên cạnh tranh chấp, hoặc tiếp đãi lạnh nhạt… nhưng những vị phát tâm vẫn nhẫn nại nhu hòa khuyên giải lấy việc giúp đỡ người vãng sinh làm trọng, đồng thời vẫn tiếp tục trợ niệm, thuyết phục thân quyến người mất cùng đến trợ niệm, lại không kể mưa gió nóng lạnh, thân tâm có mệt hay không vẫn tận tâm tận lực, đó chính là tu nhẫn nhục Ba-la-mật.
  4. Trợ niệm tức tinh tấn Ba-la-mật: tinh tấn là để đối trừ với giải đãi, lười biếng. Dũng mãnh tinh tấn có thể thành tựu viên mãn các thiện pháp. Người trợ niệm tức học hạnh Bồ Tát xả bỏ hết thảy những việc không liên quan đến giải thoát sinh tử, xa rời sự phóng dật, một lòng làm việc lợi ích cho người chẳng kể ngày đêm. Đoàn trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng có thể trợ niệm bất cứ lúc nào không kể ngày đêm sáu thời, rất nhiều vị hội viên ban ngày đi làm, công việc mệt nhọc nhưng vẫn tinh tấn không từ nan, đó chính là vì độ chúng sinh mà tinh tấn không giải đãi.
  5. Trợ niệm tức Thiền định Ba-la-mật: Thiền định là để đối trừ tâm tán loạn. Lúc trợ niệm, người trợ niệm nhiếp tâm vào Phật, không khởi vọng tưởng, sáu căn đều nhiếp, chỉ trụ vào một cảnh giới duy nhất A Di Đà Phật mà hành đại bi lợi tha, tương ứng với hóa thân Phật; trong thì xả vọng niệm, tịnh niệm tương tục, khế hội với trí tuệ diệu tướng vô lượng quang, vô lượng thọ, tương ứng với báo thân Phật A Di Đà; nếu như người trợ niệm có thể niệm mà không niệm, không niệm mà niệm, nhập Tam-ma-địa, tức tương ứng với pháp thân Phật A Di Đà, đó chính là Thiền định thậm thâm. Trong quá trình trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng, người trợ niệm khai thị người mất: “nhất tâm tưởng tượng hình tướng đức Phật A Di Đà, giống như ánh quang minh của mặt trăng trong nước không có thực thể, ánh quang từ nơi tâm đức Phật A Di Đà chiếu phóng bao quanh (người vãng sinh). (người vãng sinh) cần biết rằng những chuyện xảy ra trong đời đều như trong giấc mộng nên xả bỏ hết thảy, không phải nghĩ tưởng bận tâm về nó. Thành tâm thành ý cầu đức Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh về cõi nước Cực Lạc, rồi đi vào trong ánh quang minh nơi đức Phật A Di Đà, dung hợp làm một với ánh quang minh ấy.”  Người trợ niệm nên biết pháp quán tưởng niệm Phật, đồng thời hướng dẫn người mất an trú trong ánh Phật quang của Phật A Di Đà, đó chính như Thiền định Ba-la-mật.
  6. Trợ niệm tức Bát-nhã Ba-la-mật: trí tuệ Bát-nhã để đối trị với ngu si. Trong lúc trợ niệm, người trợ niệm đối diện với quả báo cuối cùng của người mất, chính là cơ duyên để quán sinh tử vô thường, tức trong lúc vì người trợ niệm mà thể hội được yếu chỉ “chư hành vô thường, chư pháp vô ngã” mà buông bỏ hết thảy chấp trước hư vọng. Lại lúc niệm Phật tuy quán tưởng quang minh Phật Di Đà biến chiếu mà tiến một bước thể hội tướng mà vô tướng, thể tính bản không, năng niệm là ta (bản thể), sở niệm là người vãng sinh (đối tượng) đều là như huyễn, rồi cũng như huyễn mà quán người mất vãng sinh cõi nước Cực Lạc. Tức là tam luân thể không (bản thể - ta, đối tượng - người và hình tướng - pháp đều không vướng mắc), quán ngược biết cõi nước Cực Lạc chẳng ngoài tự tánh mà hiển hiện, cũng chính là thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật.

          Các vị trong đoàn trợ niệm của tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng khi trợ niệm khai thị với người mất rằng: “trên thế gian hết thảy cũng chỉ là một giấc mộng nên mời (người vãng sinh) hãy buông bỏ hết thảy chấp trước và ái hận với mọi người, mọi sự việc trong lòng, đừng lưu luyến gì nhục thân và thế giới này cả. Bất luận bây giờ hoặc tương lai nhìn thấy thứ gì cũng cần biết đó tất cả đều là huyễn tướng phản ánh từ trong tâm mà ra, giống như người nằm mơ nên đừng mê hoặc; nhất định không được có bất cứ tâm niệm tham cầu, oán hận, chấp trước không xả bỏ gì, mà phải giữ một tâm niệm lương thiện, kiền thành trong lòng.”

          Thế gian hết thảy đều là mộng huyễn, không gì mang theo được nên nhất định phải buông xả mà toàn tâm niệm Phật, trì chú, mới có thể mong được chư Phật tiếp dẫn. Bất luận gặp cảnh giới kinh hãi hay hỷ ái gì cũng cần nhớ đó đều chỉ là những huyễn tướng trong tâm, không phải là thực. Tuyệt không được sinh tâm tham ái, oán hận, mê hoặc, ngạo mạn, hoài nghi, tật đố trong lòng; không truy cầu gì, cũng không chạy trốn, một lòng một ý niệm Phật, trì chú.

          Những khai thị trên như Kinh Kim Cang  nói: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện, ưng tác như thị quán.” Khiến cả người trợ niệm và người vãng sinh trong giờ khắc sinh tử vô thường đó đều thể hội được chân lý Bát-nhã chư pháp như huyễn mà buông bỏ hết thảy chủng chủng chấp trước vọng tướng, vọng tưởng.

      4. Lời kết      

          Kinh Lăng Nghiêm có nói: “tự vị đắc độ, tiên độ nhân giả, Bồ Tát phát tâm; tự giác dĩ viên, năng giác tha giả, Như Lai ứng thế.” – tức: chưa độ được mình mà đã độ người khác trước, đấy chính là sự phát tâm của hàng Bồ Tát; tự giác đã viên mãn, lại còn có thể giác ngộ người khác thì là bậc Như Lai xuất hiện trong cõi đời. Phật đệ tử phát Bồ Đề tâm hành Bồ Tát đạo, lúc chưa chứng thánh vị thì lực không đủ, muốn bằng sức mình để độ sinh sợ rằng kiếp dài vẫn chưa viên mãn; nhưng may thay có 48 nguyện đại từ bi của đức Phật A Di Đà, lúc sắp mất nhất tâm xưng danh nhớ niệm tức đắc đới nghiệp vãng sinh. Do đó, tuy người chưa chứng thánh vị nhưng phát tâm Bồ Đề vì tha nhân mà kiền thành trợ niệm, nếu người lâm chung có thể theo đó niệm Phật giống như sắp chìm mà gặp bè gỗ, kiên trì từng niệm đến cùng cầu sinh Tịnh độ tức thì cảm ứng đạo giao, trượng nhờ Phật nguyện mà vãng sinh Tây bang Lạc quốc; tức phàm phu nhờ nguyện lực Phật mà hành chuyện Như Lai độ hóa.

          Thực như lời hai vị thượng sư Trí Mẫn và Huệ Hoa từng nói: “độ một người vãng sinh Tịnh độ tức thành tựu một đức Phật. Độ trăm nghìn người vãng sinh Tịnh độ tức trăm nghìn người thành Phật. Phàm phu chúng ta nếu muốn độ một người thành Phật, có lẽ nghìn đời vạn kiếp vẫn khó thành, nhưng nay có phương pháp giản đơn khiến chúng ta có cơ hội lợi ích chúng sinh, độ người đến nơi cứu cánh sau cùng, đồng thời cũng thành tựu công đức vãng sinh sau này của chính mình. Đó không đáng để chúng ta dốc sức nỗ lực sao?”

          Pháp trợ niệm thực là pháp môn thù thắng bao hàm cả tinh thần nhập thế độ sinh và xuất thế giải thoát, đáng được mỗi vị hành giả hành Bồ Tát đạo chú tâm phụng hành và thực hiện.

 

Bảng thống kê trợ niệm của Tịnh xá Nặc Na Hoa Tạng tại Đài Loan,

2010 - 2013

Năm

2010

2011

2012

2013

Số người trợ niệm (người)

25441

27203

28780

30374

Số người mất (người)

10246

10907

11262

11348

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/05/2018(Xem: 8948)
Để thay vào những con số khảo sát khô khan, tôi xin đưa ra một trường hợp minh hoạ: Chiều thứ Bảy (19-5-2018), anh chị Hồ Đăng Định, tức nhà văn Quế Chi, tác giả Chuyện Ngày Xưa Nhớ Nhớ Quên Quên, Lê và tôi được chị Kim Anh, một phụ huynh thân hữu ở trong khu vực Little Saigon Sacramento mời dự tiệc Tốt Nghiệp của hai cháu út trai, và út gái của chị tốt nghiệp Y Khoa Bác Sĩ (Medical Doctor) từ UC Davis và Internship ở New York.
21/05/2018(Xem: 7655)
Lưỡi là một cơ quan của thân thể con người, nằm trong miệng, nhờ có lưỡi mà các vị ngọt, vị mặn, vị đắng, vị chua hay vị cay mới được nhận ra và nơi mỗi con người khoẻ mạnh, không tật nguyền, không bệnh hoạn thì sự nhận ra các vị ngọt mặn đắng chua hay cay này đều y hệt như nhau, ai cũng nhận ra vị này là ngọt, vị kia là mặn…nhưng cái lòng yêu thích và thèm khát hay ghét bỏ vị này vị kia thì nơi mỗi người đều khác nhau, không ai giống ai. Không chỉ là một cơ quan giúp phân biệt vị mặn ngọt chua cay của một thức ăn hay bất cứ vật gì được bỏ vào miệng, lưỡi còn là một cơ quan giúp con người biểu lộ cảm xúc và tư tưởng bằng lời nói, ngôn ngữ. Không có lưỡi thì lời nói không thể thốt ra rành mạch, chính xác mà nhờ đó con người có thể hiểu nhau, giao tiếp với nhau. Tuy rằng cũng có ít người đặc biệt nói được bằng…bụng, không thấy họ động đậy cái miệng, môi mép và chắc chắn là lưỡi cũng không dùng đến nhưng họ có thể phát ra âm thanh và lời nói qua hơi thở điều khiển từ bụng lên đến
17/05/2018(Xem: 6109)
Màn đêm buông xuống, bóng tối mờ nhạt bao trùm mọi vật. Ánh trăng đêm nay yếu ớt nhưng dịu dàng và dễ chịu, vẫn đủ để cho tôi chiêm ngưỡng dung từ tượng Đức Phật Lộ Thiênngồi yên dưới tàn cây, mắt Ngài như đang nhìn xuống chúng tôi, nhìn xuống chúng sanh, nhìn xuống cuộc đời và kiếp người. Đôi mắt Ngài từ bi, miệng Ngài mỉm cười như chưa bao giờ tắt, hình ảnh Đức Phật ngồi yên đã đi vào tâm thức tôi bao điều kỳ diệu.
16/05/2018(Xem: 9887)
Câu chuyện này được kể lại khi đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên, liên hệ đến một số thầy Tỳ-kheo. Một hôm năm trăm Tỳ-kheo ngồi ở pháp đường và bàn luận: - Chư hiền, điều gì là hạnh phúc nhất trên đời?
15/05/2018(Xem: 6150)
Trước hết xin chân thành cảm ơn anh Hau Pham Ngoc, nguyên Đoàn phó Đoàn HSPT Mục Kiền Liên, sáng sớm hôm nay đã chia sẻ về một kỳ niệm tuyệt vời nhân mùa Phật Đàn mà những tường mình đã lãng quên với bao lo toan trong hiện tại.
15/05/2018(Xem: 5803)
Bài này được viết trong ngày gần Ngày Lễ Mẹ tại Hoa Kỳ, để cúng dường Tam Bảo, và dâng tặng tất cả các bà mẹ từ vô lượng kiếp trên đời này. Bài này ghi về một số vị Thánh Ni thường được nhắc tới trong kho tàng Kinh Tạng Pali, cụ thể tổng hợp từ Therigatha, các sách “Psalms Of The Sisters” của dịch giả Mrs. Rhys Davids, “Inspiration from Enlightened Nuns” cùa dịch giả Susan Elbaum Jootla, “Buddhist Women at the Time of The Buddha” của dịch giả Hellmuth Hecker (dịch từ bản tiếng Đức của Ni Trưởng Khema). (1) Các Thánh Ni này trước khi xuất gia đã là những bà mẹ trong những hoàn cảnh rất mực đau khổ.
15/05/2018(Xem: 8484)
Nếu phải mất mười ngày để trả lời cho một sự phân vân hay một thắc mắc thuộc về môi trường và tâm lý thì cũng rất nên làm thử xem sao. Số là sau ngày hưu trí vào năm 2008, tôi vẫn thường đặt sinh hoạt ưu tiên cho mình là đi cho biết đó biết đây.
15/05/2018(Xem: 15402)
Vở Hài Kịch: Thuộc Kinh Mới Lấy Làm Chồng, soạn giả: Quảng Hương Phương Giang; diễn viên: Nguyên Giác, Nguyên Hỷ, Nguyên Nhật Thơ, Tâm Hương (Huệ), Quảng Tịnh Kim Phương & Quảng Hương Phương Giang; biểu diễn tại Buổi Văn Nghệ Gây Quỹ Xây Dựng Pháp Xá Quảng Đức, Sunday 6-5-2018, quay phim: Mỹ Hạnh Nguyên Nhật Khánh
09/05/2018(Xem: 7394)
MC Lâm Ánh Ngọc chia sẻ bí quyết “ĐỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC”, Cuối tháng 4 vừa qua, MC Lâm Ánh Ngọc(LAN) là khách mời trong khóa tu "An nhiên từng phút giây" tổ chức tại chùa Huệ Viễn – Đồng Nai do Thầy Thích Pháp Đăng làm trụ trì. Đi cùng LAN còn có diễn viên Quý Ân – Người đóng vai anh 3 Đặng trong phim điện ảnh Về Phía mặt Trời. Chia sẻ với hơn 100 bạn trẻ nội dung "Để được hạnh phúc" , Mc Lâm Ánh Ngọc đã được Thầy Thích Nguyện Truyền đặt ra những câu hỏi về cuộc sống và con đường LAN đang đi. Những trắc trở và cách LAN vượt qua để giúp các bạn trẻ có thêm kinh nghiệm cho cuộc sống của mình Các bạn sinh viên nghỉ được vài ngày lễ, thay vì không về nhà với Ba Mẹ thì cũng sẽ rong chơi phiêu lãng cùng chúng bạn nhưng các em sinh viên lại về đây để tìm hiểu về chính mình, nuôi dưỡng chính mình.
08/05/2018(Xem: 7748)
Vàongày 28 tháng 4 năm 2018, GiáosưTiếnsĩ Stephen Lloyd-Moffett, TrưởngkhoaTôngiáohọccủatrườngĐạihọcBáchkhoa Cal Poly (California Polytechnic State University), San Luis Obispo, CalifoniađãhướngdẫnsinhviênnămthứtưđếnchùaTâmTừtọalạctạisố 610 Fisher Avenue, Morgan Hill đểtìmhiểuPhậtgiáoViệt Nam. ĐoànđãđượcThượngtọatrụtrìThíchPhápChơnhướngdẫnmộtngàytuhọcchánhpháp qua nghithứclễPhật, thamthiền, đikinhhànhvàcâuhỏivấnđáp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]