Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống Không Sợ Hãi và Lo âu.

27/02/201508:14(Xem: 7843)
Sống Không Sợ Hãi và Lo âu.



LÀM THẾ NÀO

ĐỂ SỐNG KHÔNG SỢ HÃI VÀ LO ÂU
Hòa Thượng K. Sri Dhammananda
Dịch Việt: Tâm Quang Nguyễn Cảnh Lâm


Thien Su Dhammananda

Con người sinh ra, họ khổ đau, rồi họ chết. Theo Anatole France, đó là điều mà kẻ uyên bác đã từng tóm lược về thân phận loài người. Mặt khác, một số nhà tư tưởng tự do nói rằng: "Con người là guồng máy nhỏ, cấu tạo bởi sự sắp xếp ngẫu nhiên của các nguyên tử và phát triển theo quá trình tiến hóa tự nhiên. Đau khổ không thể nào tránh khỏi trong cuộc đấu tranh của con người cho sự sống còn. Không có ý nghĩa nào khác hơn, cũng chẳng mục đích chi cao cả. Chết là sự tan rã của các phần tử hóa học; không còn gì tồn tại."

Trong khi cả hai phần trên đều là điều quan sát chung trong số các người hoài nghi, duy vật gia, và thậm chí đến vài nhà tư tưởng vĩ đại; những triết gia và các bậc đạo sư của các tôn giáo đã cố gắng tìm kiếm một số ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, đặc biệt là vấn đề liên quan đến khổ đau.

Theo như Đức Phật, đặc tính của tất cả vạn vật là sinh, hoại, và diệt trong tiến trình không bao giờ kết thúc. Tất cả mọi yếu tố không ngừng thay đổi và luôn xung đột. Những chúng sinh tin vào một linh hồn hay một thực thể vĩnh cửu đều gia tăng thêm niềm khát vọng ích kỷ, mà họ không bao giờ có thể tự mãn nguyện, vì thế dẫn dắt đến nỗi sợ hãi và lo âu.

Đức Phật đặt nền tảng căn bản đạo đức vào giáo lý khi Ngài tuyên bố rằng, trong khi có khổ đau và ngờ vực giữa sự hiện hữu, con người mặc dù vậy cũng có thể trải nghiệm được cả hai niềm hạnh phúc tuyệt đối cũng như tạm thời, nếu họ học hỏi để phân biệt giữa khéo léo và vụng về trong các hành động.

Để đáp ứng, con người trước tiên phải có Chánh Kiến, có nghĩa là họ phải nhận thức ra bản chất bất toại nguyện của chính mình cùng những thú vui nhục dục, và hướng dẫn cuộc sống thật chánh đáng để chấm dứt những tư tưởng bất mãn và lòng không kiên định.

Tại Sao Lo Âu
Ấn bản đầu tiên Tại Sao Lo Âu đã được xuất bản vào năm 1967 (10.000 bản) và kể từ đó nhu cầu đòi hỏi càng nhiều và đã được in lại không ít hơn sáu lần với tỷ lệ 5,000 quyển cho mỗi lần tái bản. Những lá thư tri ân và cảm ơn đã đổ về từ các nơi trên thế giới - Mỹ, Anh, Đức, Nam Phi và hầu hết các nước Á Châu.

Những người bày tỏ lòng tri ân cho cuốn sách không chỉ riêng Phật tử, nhưng có cả người Ấn giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo và thậm chí một số "nhà tư tưởng tự do". Sức hấp dẫn của cuốn sách là do một phần được viết đơn giản, chẳng tích trữ kỳ vọng, và cũng vì mục đích chính của nó là để tiết lộ sự thật về cuộc sống không chỉ từ quan điểm của Phật giáo, mà còn qua quán chiếu hợp lý của những tôn giáo khác cùng các nhà tư tưởng lớn. Quyển sách được viết chủ yếu để mang lại sự an lạc và niềm khuây khỏa cho những ai đang cần sự hướng dẫn, để đối mặt với bao bối rối và đầy phức tạp của nền văn minh hiện đại.

Một số người viết đến để nói họ ngăn chặn được ý tưởng tự tử ra sao bằng cách đọc sách, những người khác nói rằng họ đọc một vài trang mỗi đêm để giúp họ bình tĩnh tâm trí và vững vàng tự nhắn nhủ với chính họ rằng, thật sự có những giải quyết đơn giản và thực tiễn cho các vấn đề bao trùm trên thế giới.

Nhiều điều đã xảy ra kể từ khi Tại Sao Lo Âu xuất hiện lần đầu tiên, bao thay đổi đã luân chuyển. Trong những năm qua, tác giả đã quán nhập được nhiều hiểu biết mới liên quan đến vấn đề nhân sinh qua kết quả thâu nhận vô ngần những lá thư đã viết cho Ngài, cũng như trong các cuộc thảo luận giá trị với những người gặp khó khăn từ các tầng lớp xã hội. Chính vì thế đã dẫn đến quyết định cho ra đời ấn bản mới vào thời điểm này.

Ấn bản cải tiến này tìm cách giải đáp những vấn đề có từ muôn thuở và những đặc thù trực diện trong hiện tại. Nhưng trọng tâm chính của sách vẫn không thay đổi: đó là, thể hiện phương cách hướng dẫn một người có thể sống mà không có sự sợ hãi và lo âu, với điều kiện người đó phải có Chánh Tư Duy (suy nghĩ đúng).

Quyển sách này sẽ cố gắng thảo luận về các vấn đề từ quan điểm thực tiễn và nhân văn. Để kết thúc, nhiều trích dẫn, những giai thoại, những câu nói dí dỏm, những truyện ngụ ngôn đã được gom lại để cho thấy những người sáng suốt đã quán xét tình trạng nhân sinh như thế nào qua thời gian và không gian. Nhiều người trong số này có tư tưởng Đông phương, còn một số độc giả khác có thể gặp khó khăn thấu hiểu được và họ cảm thấy chỉ thích hợp với một văn hóa có đặc thù riêng khác hơn.

Tuy vậy những độc giả đó cũng được hưởng lợi ích nếu họ có thể phân biệt giữa cốt lõi của những mẫu chuyện và quan điểm được hình thành. Kết cuộc, những vấn đề đại đồng và các chân lý đều có thể ứng dụng chính chắn cho tất cả mọi người.

Thiết tha hy vọng cuốn sách này sẽ mang lại nguồn cảm hứng mới mẽ và đầy hy vọng cho bất cứ một ai đọc nó mà không có ý nhạo báng và nghi ngờ.

K. SRI DHAMMANANDA
WESAK DAY 19/5/89 B. E. 2533


LỜI DỊCH GIẢ

Bao kiếp vòng quay bánh luân hồi
Vô thường trần lụy mãi vậy thôi
Ngã vô minh chấp nên ảo tưởng
Nghiệp chướng vô biên ngập núi đồi

Đâu là vô thỉ khởi đầu tiên
Gieo nhân, gặt quả, rước nhân duyên
Chính cuộc tử sanh, sanh tử mãi
Trần gian vô vọng phút bình yên

Con tự biết khả năng còn quá yếu kém, kiến thức lại thô thiển, và Phật pháp rất nông cạn, nhưng thiết nghĩ cuốn sách “How To Live Without Fear And Worry” của Hòa Thượng K. Sri Dhammananda có thể mang lại nhiều ích lợi cho mọi thân hữu, nên con nỗ lực phiên dịch ra Việt Ngữ. Kính mong các bậc thức giả cao minh xin vui lòng tha thứ cho những sai sót lỗi lầm. Dịch giả không giữ bản quyền Việt Ngữ và mọi ấn tống đều tùy tiện quý độc giả.

Với sự khuyến khích và giúp đỡ của các Đạo Hữu: Tuệ Đăng Phan Viết Cường, Từ Hạnh Võ Xuân Hảo, Thiện Phúc Võ Thanh Phong, và Nhuận Thuận Nguyễn Minh Phương Thảo, bản dịch Việt Ngữ “Làm Thế Nào Để Sống Không Sợ Hãi Và Lo Âu” được thành hình. Tất cả chúng con xin hồi hướng công đức hoằng pháp này lên Ngôi Tam Bảo và thập phương pháp giới chúng sinh. Cầu nguyện Hồng Ân Tam Bảo thùy từ gia hộ cho Quý Vị và Bửu Quyến thân tâm thường an lạc và hạnh phúc.

Phật Lịch 2557, Arlington, Texas
Tâm Quang Nguyễn Cảnh Lâm


pdf

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/07/2013(Xem: 5943)
Đức Thế Tôn thường dạy rằng sau những ngày tháng vân du hoằng hóa độ sanh ở các làng mạc xa xôi, chư Tôn đức tăng ni mỗi năm trong ba tháng mùa mưa nên trú một chỗ cùng nhiếp thân khẩu ý, chuyên tu thiền định, trưởng dưỡng giới định tuệ, nuôi lớn đạo tâm trong tinh thần thanh tịnh lục hòa của tăng già.
27/07/2013(Xem: 6951)
Tôi đang huân tập một đức tính: Hễ có ai chửi tôi, nhục mạ, bôi lọ tôi…tôi sẽ nhẫn nhục không trả lời. Nếu buộc phải trả lời tôi sẽ dùng lời lẽ ôn hòa, không dùng lời thô tục, hung dữ…để trình bày rõ sự việc, để mọi người được biết…mà không làm tổn thương đến người đang công kích hay thù hận tôi. Đức Phật dạy rằng “Muôn loài chúng sinh đều bình đẳng”. Nếu con hổ có thể gầm, con sư tử có thể rống…thì con chim cũng có thể hát ca, con suối có thể reo, thậm chí loài côn trùng nhỏ bé cũng có quyền cất lên tiếng nỉ non giữa canh khuya. Ai cũng có quyền cất lên tiếng nói mà không một ai có quyền ngăn cản miễn sao tiếng nói đó không làm tổn hại tới người khác, không làm xáo trộn sự an vui của cộng đồng.
27/07/2013(Xem: 6502)
Đi chùa lễ Phật, ở nhà ăn chay, tụng kinh niệm Phật, ra ngoài đời hoạt động thiện nguyện, đóng góp cho xã hội là sinh hoạt nền tảng cần có của một Phật tử chân chính. Những hoạt động trên có tác dụng rất lớn khiến bản thân thanh tịnh, tâm hồn hướng thượng, gia đình hạnh phúc, vun trồng cội phúc cho mình và cho con cháu. Song đó chỉ là những điều kiện cần nhưng chưa đủ
27/07/2013(Xem: 7887)
Mẹ tôi là một góa phụ đã bảy mươi mốt tuổi, người đã sống một mình kể từ khi Ba tôi mất cách đây mười chín năm. Sau khi Ba tôi qua đời, tôi đã di chuyển 2500 dặm để đến California, nơi tôi bắt đầu xây dựng mái ấm gia đình và lập nghiệp ở đây. Khi tôi quay về lại quê nhà cách đây năm năm, tôi tự hứa với chính mình sẽ dành nhiều thời gian cho Mẹ. Nhưng vì bận rộn công việc và ba đứa con, tôi đã không có thời gian nhiều để thăm Mẹ ngoài những dịp nghỉ lễ hay gặp mặt gia đình.
26/07/2013(Xem: 17965)
Thuyết Luân Hồi & Phật Giáo Tây Phương (Rebirth and The Western Buddhism), nguyên tác Anh ngữ của Martin Wilson, Việt dịch: Thích Nguyên Tạng
26/07/2013(Xem: 6467)
Bác đi tu từ bao giờ tôi không biết. Khi tôi có hiểu biết thì đã thấy bác là một ông thầy chùa. Khi tôi hiểu biết thêm một chút nữa thì cả gia đình bác đã có một ngôi chùa riêng. Trước đó bác tụng kinh gõ mõ trong ngôi nhà thờ của dòng họ mà bác là người vai trưởng được cai quản. Tôi phải nói là bác tôi vừa là một ông thầy chùa nhà quê, vừa… mù chữ. Có lẽ ông không biết một chữ a, b, c nào cả. Nhưng ông biết “chữ nho”. Bác tụng niệm ê a bằng “chữ nho”.
26/07/2013(Xem: 8972)
Nguyễn Du khi cho Kiều đi tu phía sau vườn của nhà Hoạn Thư, chỉ cho cô thọ tam quy ngũ giới. Nhiều Thầy của chúng ta phản đối, cho là Nguyễn Du không hiểu luật xuất gia cho nên nói như vậy, vì người xuất gia, theo luật, thấp nhất là thọ mười giới sa-di. Sự phản đối này thiếu cơ sở lịch sử về vấn đề truyền thọ giới và thọ giới ở nước ta.
25/07/2013(Xem: 6178)
Năm nay là năm 2013, đây là năm kỷ niệm chu niên lần thứ 30 của Gia Đình Phật Tử Pháp Bảo tại thành phố Sydney, tiểu bang New South Wales, Úc Đại Lợi. Những khuôn mặt của 30 năm về trước và những con người theo suốt chiều dài lịch sử vừa qua, đến nay chắc chắn đã theo luật Vô Thường biến đổi khá nhiều. Nếu làm con tính nhẩm, các em Oanh Vũ 6 tuổi của thời 1983, thì năm nay cũng đã thành một thanh niên, thanh nữ 36 tuổi
25/07/2013(Xem: 6417)
Vươn đến một đời sống thành công và hạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻ và hạnh phúc.
25/07/2013(Xem: 7036)
Khổng Tử: Trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Một lần Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu của Khổng Tử Thời Đông Chu bên Tàu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ ... Thầy trò Khổng Tử trên đường từ Lỗ sang Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng. May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc thổi cơm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567