Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Học Phật Mà Không Chịu Trưởng Thành

15/01/201509:09(Xem: 9409)
Học Phật Mà Không Chịu Trưởng Thành
Tao_tau_hoanglan




Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng. Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ, thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp. 



 

Nhưng nói chung, chúng chạy theo hai khuynh hướng, hướng xấu ác và hướng tốt lành. Xã hội ngày nay, chư vị thức giả, trí giả đang báo động tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của các giá trị tinh thần. Những chuẩn mực về đạo đức, luân lý, tình thương, lẽ phải, điều thiện, cảm thông, tha thứ, nhân nghĩa... đang bị xơ cứng, xói mòn, lệch chiều, điên đảo... 

Chưa bao giờ nhân loại đứng trước hiểm hoạ diệt vong khi những chuẩn mực nêu trên bị “con người” tìm cách xoá sổ như ngày nay. Cả thế giới, nước nào cũng tăng cường vũ khí huỷ diệt. Rồi chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh, ma tuý, buôn người, buôn nội tạng, vô cảm, trơ lì, độc ác, bạo tàn, gian ác, dối trá, mưu sâu, kế độc... hằng ngày hằng giờ diễn ra khắp mọi nơi. 

Một vài đất nước an lành, an toàn, an vui... còn sót lại trên thế giới, cụ thể là nước Bhutan, một quốc gia coi như trăm phần trăm theo đạo Phật thì tợ như viên ngọc Như Ý giữa sa mạc lòng người, lòng đời; thật là ngàn năm có một, phải đáng cho nhân loại này suy gẫm cạn sâu.

Đạo Phật đúng là một đứa con đã trưởng thành của nhân loại. Do đã trưởng thành nên nó phát triển những tố chất, phẩm chất của nhân tính để đi lên, để thăng hoa; và nó loại trừ, làm cho giảm trừ, tiêu mòn, tận diệt những tính chất xấu ác bản năng luôn đeo bám nặng nề đưa tâm thức đi xuống ngang bằng với các loài thú, có kẻ còn tệ hơn cả loài thú!

Vậy, người học Phật phải lớn, phải trưởng thành; nếu không, chúng ta sẽ rùng mình, lạnh gáy khi đọc câu kinh Lời Vàng số 152 mà đức Phật đã nghiêm khắc, răn đe, dạy bảo:

“- Kẻ kia kém học, ít nghe
Nở nang, cường tráng, to bè như trâu
Lớn lên, đống thịt lớn mau
Nhưng mà trí tuệ có đâu lớn cùng?!”

Phải lớn, trí tuệ phải lớn! Chứ không phải là lớn phần vật chất, phần thịt hoặc phần xấu ác, bản năng! Mà nếu muốn có trí tuệ lớn thì năm năng lực tâm linh cùng tiếp sức đi chung với tuệ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) cũng phải biết lớn theo! Và nếu nghiêm túc xét theo tiêu chí ấy thì đa phần trong chúng ta, những người tu Phật, nhất là cận sự nam nữ, vẫn còn là trẻ con, những con người chưa chịu lớn, chưa chịu trưởng thành.

Con nít thì ai nói gì tin nấy, bạ đâu theo đấy! Cũng vậy, có một số Phật tử nghe có một ông đạo hay một người thầy giỏi nào đó thì ùn ùn đổ tới. Một dạo như Thanh Hải, một dạo như Duy Tuệ... và có cả hằng chục “đạo sư”, “giáo chủ” không biết ở đâu xuất hiện với danh xưng pháp sư, đại pháp sư được quảng cáo trên một số trang mạng là người ta lại như lên cơn sốt chầu chực mong được ban phước lành. 

Họ có cả những bùa chú, pháp ấn linh nghiệm trừ tà đuổi quỷ, đem đến an lành, hạnh phúc; và họ có cả năng lực đưa linh hồn đến nơi giải thoát nữa! Có nơi còn quảng cáo, là niệm cái này cái kia thì siêu độ tất thảy. Thiện ác, ngu trí gì cũng siêu độ được tất. Cả hai trường hợp nêu trên đều khỏi tu tập làm gì cho mất công! Vậy mà người ta cũng tin thì không gọi là trẻ con là gì! Còn nếu là người lớn, trưởng thành thì người ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin nhân quả nghiệp báo, tin luân hồi tử sanh, tin Tứ Diệu Đế (nghĩa là tự mình thấy khổ, nguyên nhân khổ, diệt khổ và con đường diệt khổ).

Trẻ con thì sợ doạ ma, doạ quỷ, doạ ông “kẹ”! Cũng vậy, tương tự vậy, một số Phật tử gặp những giảng sư, pháp sư, “ta-bà sư” nào đó hù doạ nếu không theo ông, theo cách tu hành của ông hoặc không để ông mở luân xa cho thì sẽ bị ma quỷ quấy nhiễu làm cho điên loạn. Hoặc, có vị luôn tìm cách doạ thiên hạ bằng cách chỉ nói cái khổ của địa ngục; và phải lập đàn tràng để ông cúng lễ cho thì cha mẹ nhiều đời mới được vãng sanh!

Thế mà hằng ngàn Phật tử cũng tin, tuân theo răm rắp thì không là còn quá trẻ con là gì? Nếu là một Phật tử lớn khôn, trưởng thành về trí tuệ thì họ biết rằng, chính tôn giả Mục Kiền Liên, bậc thượng thủ của giáo hội, là thần thông đệ nhất cũng không có khả năng cứu độ mẹ, mà phải nhờ vào năng lực của đức Phật cùng chư đại thánh tăng, sau mùa an cư chú nguyện cho mới được, do “cộng lực” của tâm thanh tịnh! 

Trẻ con thì luôn luôn tìm chỗ để nương tựa nơi cha nơi mẹ nơi ông nơi bà nơi anh nơi chị. Khi đói, khóc lóc đòi ăn. Khi đau, khóc lóc nhờ cha, cậy mẹ. Cũng vậy, rất nhiều cận sự nam nữ của chúng ta khi làm ăn xuôi chèo mát mái thì thôi, nhưng khi gặp tan nạn, ốm đau, rủi ro, lụn bại gia sản, hoặc do muốn chồng con thăng quan tiến chức, đỗ đạt, qua cơn thương vụ làm ăn hiểm nguy... thì họ cũng “khóc lóc”, cũng tìm nượng tựa nơi thế giới huyền bí u linh nào đó! Họ xì xụp khấn vái, van xin, cây đa, ông táo, điện này, chùa kia để Trời, Thần, Thánh, Phật gia hộ, độ trì cho. Đây cũng là trường hợp trí tuệ chưa trưởng thành. Tại sao vậy? Bậc trí thì nhớ lời đức Phật dạy trong kinh Lời Vàng số 160:

“- Tự ta bảo hộ cho ta
Có ai nương tựa gần xa mà cầu!
Tự mình chế ngự làm đầu
Khó khăn điều phục, gắng lâu cũng thành!”

Con nít thì thường không biết đâu hiểm nguy, đâu an toàn. Nó có thể vui chơi hồn nhiên, vô tư nơi những vật nhọn, vật cháy, vật nổ... Đến khi “cái quả” giáng đến có thể sinh nhiều tai nạn, hung hoạ, tật nguyền và có thể cả tử vong. Cha mẹ dù có quan tâm, lo lắng, đau buồn thì chuyện cũng đã xẩy ra rồi! Cũng vậy, là thế gian này. Bình thường, con người họ làm tất cả mọi việc, không từ nan cả việc xấu ác, gian dối... mục đích là kiếm cho thật nhiều tiền. Họ lân la, kề cận, “vô tư, hồn nhiên” tỉnh bơ bên xì ke, ma tuý, đao kiếm, mãi dâm, hối lộ, tham nhũng, quyền chức, bạc tiền, địa vị... đến khi bi lao tù, hình ngục, thân tàn ma dại... thì cũng là chuyện đã rồi! 

 

Chuyện đã rồi là khổ, là đau, là ăn năn hối hận, là nhà tan cửa nát! Thế thì đa phần họ sợ “quả” chứ không biết sợ “nhân”. Một số người tu Phật cũng nằm chung trong tình huống trên. Rất nhiều người khi hanh thông, thành đạt thì không chịu tu hành; đến khi “hữu sự” do những nhân xấu đã làm trong quá khứ, quả đau khổ đến, họ mới chịu đi chùa nghe pháp, nghe kinh, bố thí, làm phước.  Nghĩa là cũng sợ quả chứ không sợ nhân. Bồ-tát, bậc trí thì trái lại. Cho nên khế kinh có nói: Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả.

Con nít thì thích màu mè, xênh xang hình thức, trống đánh, kèn thổi, vui chơi nhảm nhí. Thì xã hội, con người ngày nay cũng vậy. Cứ đám đông ồn ào, nhảy múa, ca hát, đá banh, sao này sao kia thì ùn ùn tung hô, cả trăm fan ngàn fan, tự đánh bóng, quảng cáo rầm rộ... chẳng hề trưởng thành trong nhận thức, trong tư cách, trong văn hoá! Nhan nhản chuyện khoe áo quần, ăn diện, xe cộ, các vòng... hợm hỉnh, vô duyên của những con người không chịu lớn, à có lớn, lớn phần thịt, phần bản năng, phần động vật bên trong! 

 

Tại chỗ này, tự dưng tôi nhớ da diết, tâm cảm câu thơ của cụ Tản Đà: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Đúng vậy, toàn là trẻ con đang nhảy múa, hò hét, vui chơi nhãm nhí xung quang chúng ta! Nói người lại nghĩ đến mình, Phật giáo mình. Rất nhiều người, cả tu sĩ và cư sĩ cũng đều là còn trẻ con như thế. Có những ngôi chùa màu sắc loè loẹt, sặc sỡ, điện chớp nháy xanh đỏ trắng vàng thật là vui mắt! Ta còn thấy trong những đại hội Phật giáo thế giới, có một số tu sĩ không phải nước mình, ăn mặc “phức tạp” hình thức, trình diễn khăn này, quàng kia, áo trong, áo ngoài, dây mũ, dây lưng, dây cột đủ thứ... lạ lùng như phường hát tuồng! Lại nói đến các lễ hội. 

 

Càng lễ hội tưng bừng chừng nào thì người ta chen chân không lọt, Phật giáo cũng không ngoại lệ. Lại còn chùa nào có đàn ca xướng hát thì Phật tử mới đông, mới có tiền cúng dường! Có nơi, nghe nói, có“ta-bà sư” còn bắt ấn, múa ấn, cứ mỗi ấn múa là mười lăm triệu. Nhiều ấn chừng nào có phước chừng đó; và như thế những vong linh mới siêu độ được! Ôi, nhiều lắm, kể không hết đâu. Nhưng nói tóm một câu: Vậy mà người ta cũng làm được, tin được thì không là trẻ con thì gọi là gì?

Con nít thì thích bắt chước. Người lớn làm sao thì chúng bắt chước như thế. Nào là bắt chước ăn mặc, tô môi, độn đủ thứ, chuyển giới, cách đi đứng, hát hò, nhảy tưng tưng, khoe thân, khoe những phần phản cảm... mà lại hí hửng, hãnh diện... bằng ta bằng người! Còn được gọi là văn hoá, văn minh, hiện đại, tiên tiến nữa chứ! Trong giới Phật giáo thì cái tính bắt chước cũng đang báo động. Các ông sư Thiếu Lâm múa võ tưng bừng có“thương hiệu làm ăn đàng hoàng” thì đâu đó giới tu sĩ cũng xem võ học là một cách tu! 

 

Đâu đó có mấy nhà sư Đại Hàn lên sân khấu biểu diễn ca nhạc kịch thì có người cũng đem vào nhà chùa để ca vũ nhạc kịch như ai! Thấy mấy ông pháp vương, pháp sư Tây Tạng nào đó đem những mạng đà-la, những cách mật truyền gì đó thì ta cũng có người bắt chước huyền huyền bí bí để nhát thiên hạ, lôi kéo tín đồ... mới là thời thượng! Những vị thiền sư chân chánh ở Miến, ở Thái nhiều năm tu học trong rừng sâu, sau đó, lấy kinh nghiệm tu chứng bản thân để dạy yếu chỉ minh sát cho người có duyên khai tâm mở trí. 

 

Thấy hay, thế là người ta bắt chước. Một số tu sĩ, cư sĩ mới tu học đâu từ “mới đầu hôm cho đến sáng”, bảnh mắt ra, đã bắt chước thành thiền sư để dạy thiền minh sát nơi này nơi nọ. Thấy người ta “phồng xẹp” cũng bắt chước “phồng xẹp”. Thấy người ta đi kinh hành “dở à, bước à, đạp à!” cũng bắt chước “dở à, bước à, đạp à!” Hiện trạng này cũng nhiều lắm! Đủ mọi loại bắt chước. 

 
Tao_tau_thanhphi

Băt chước giống chùa Tàu, chùa Đài Loan, chùa Nhật, chùa cung đình! Có nhiều “Đại Tự” nổi danh trên báo mạng, trên thông tin du lịch, tôi đến thăm xem, tay cầm máy ảnh... đi một vòng... không biết chụp cái gì, đành bỏ không, ra về. Vì tôi không thấy đâu là sự tinh tế của nghệ thuật kiến trúc, cũng không thấy đâu là hồn Việt, hồn thiền... chỉ thấy “hồn vật chất” hoành tráng, đường bệ, ngạo nghễ, phô cái đại bản ngã ra cho thiên hạ khâm phục, ca ngợi bạc tiền, công phu, vĩ đại! Ở đâu đó thường thích cái to lớn, vĩ đại, kỷ lục này, kỷ lục nọ... bắt chước chẳng khác chợ đời! Ôi! Cái loại con nít, chưa chịu trưởng thành này kể sao cho xiết!

Còn nữa, con nít thì mau quên, cái gì vừa làm tức thời là quên ngay! Nó phá nghịch cái gì đó, cha mẹ la rầy hoặc trách mắng... một vài lần cũng không ăn thua. Đôi khi phải đánh đau, nó mới nhớ! Cũng vậy, rất nhiều người tu Phật cũng còn tính trẻ con như thế. Vừa xin giới hoặc vừa nguyện cái gì đó trước Tam Bảo – nhưng rồi, lúc ra chợ, gặp bạn bè lôi cuốn, thế là quên giới, quên lời nguyện ngay! Có trường hợp khác, những lời khuyên dạy sống đời trong lành, hiền thiện của thầy, của kinh pháp, có thể học thuộc lòng... nhưng tập khí quá mạnh, lôi cuốn vào đường xấu, vẫn chưa tỉnh. Đến khi nghiệp báo trổ quả, đánh cho những đòn đau, khi ấy mới nhớ, mới tỉnh. Thế không gọi con nít là gì!

Khái quát như thế cũng tạm đủ. Thế gian này, như vậy, đa phần chúng sanh chưa chịu trưởng thành. Giới tu Phật cũng thế, không chịu làm người lớn. Đáp ứng và nhu cầu. Nhu cầu và đáp ứng. Đói thì tìm vú mẹ. Trẻ kêu khóc là do bụng đói, hãy cho nó cái ăn! Làm ngang đó và thoả mãn ngang đó. Không chịu lớn khôn hơn để thấy sâu, thấy rộng về nhân, về quả, về tâm, về nghiệp, về tín, về tuệ. Rốt ráo hơn tí nữa là phải thấy lý duyên sanh, thấy khổ và nguyên nhân khổ để diệt khổ mới xứng đáng làm người lớn, người con trưởng thành trong giáo pháp của đức Sakyā Gotama lịch sử!

MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/02/2021(Xem: 5200)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5622)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4479)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5071)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4632)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
14/02/2021(Xem: 5329)
Nhân đọc bài về tuổi già của Đỗ Hồng Ngọc Bác sĩ y khoa, tôi mỉm cười. Mình cũng thuộc tuổi già rồi đấy!! Các bạn mình cũng dùng chữ ACCC= ăn chơi chờ chết vì vượt qua ngưỡng tuổi 70 rồi. Vậy theo BS Ngọc là làm như vậy cũng thực tế đó nhưng có thật là hạnh phúc tuổi già không? Bạn có đủ hết, con cái thì hết lo cho chúng được nữa rồi, chúng tự lo lấy chúng. Tiền bạc thì hết lo được nữa rồi có bấy nhiêu thì hưởng bấy nhiêu.
14/02/2021(Xem: 4821)
Phật giảng thuyết có ba phương cách: a. Giảng trực tiếp như các kinh đạo Phật Nguyên thủy, b. Giảng bằng phủ định, từ chối là không và phủ định hai lần là xác định tuyệt đối. c. Giảng bằng biểu tượng, đưa câu chuyện cánh hoa sen hay viên ngọc trong túi người ăn mày để biểu tượng hoá ý nghĩa sâu xa của kinh. Phương cách thứ ba này là kinh Pháp Hoa. Có nhiều biểu tượng nhưng nổi bật nhất là cánh hoa sen là biểu tượng kinh Pháp Hoa.
10/02/2021(Xem: 9533)
Long Khánh là một thị xã ven Đô, Phật giáo tuy không sung túc như các Tỉnh miền Trung Nam bộ, nhưng sớm có những ngôi chùa khang trang trước 1975, do một số chư Tăng miền Trung khai sơn lập địa. Hiện nay Long Khánh có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Hiển Mật hay còn gọi là chùa Ruộng Lớn tọa lạc tại Thị xã Long Khánh, chùa Huyền Trang, tọa lạc tại ấp Bàu Cối, xã Bảo Quang,.…Nhưng điều đáng nói là một ngôi Tam Bảo hình thành trong vòng 5 năm,khá bề thế. Qua tổng thể kiến trúc và xây dựng, không ai ngờ hoàn hảo trong thời gian cực ngắn, đó là Tịnh xá Ngọc Xuân, do sư Giác Đăng,đệ tử HT Giác Hà, hệ phái Khất sĩ, thuộc giáo đoàn 5 của Đức thầy Lý.
08/02/2021(Xem: 4914)
Hình ảnh con trâu tượng trưng cho tâm ý của chúng sinh. Mỗi người ai cũng đều có một con “trâu tâm" của riêng mình. Và cứ như thế pháp chăn trâu được nhiều người sử dụng, vừa tự mình chăn vừa dạy kẻ khác chăn. Vào cuối thế kỷ mười ba, thời nhà Trần, trong THIỀN MÔN VIÊT NAM xuất hiện một nhân vật kiệt xuất. Đó là Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, ông là một thiền sư đắc đạo. Ông là người hướng dẫn vua Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị vua sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử này.
08/02/2021(Xem: 4147)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thật và sự thật thứ nhất là "Khổ đau". Khổ đau ẩn chứa trong thân xác, bàng bạc trong tâm thức của mỗi cá thể con người và bùng ra cùng khắp trong thế giới: bịnh tật, hận thù, ích kỷ, lường gạt, đại dịch, bom đạn, chiến tranh... Sự thật đó, khổ đau mang tính cách hiện sinh đó, thuộc bản chất của sự sống, gắn liền với sự vận hành của thế giới. Sự thật về khổ đau không phải là một "phán lệnh" hay một cái "đế", cũng không mang tính cách "kỳ diệu" gì cả, mà chỉ là một sự thật trần trụi, phản ảnh một khía cạnh vận hành của hiện thực.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]