Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự tắm rửa trong Chánh Pháp

25/12/201405:05(Xem: 7902)
Sự tắm rửa trong Chánh Pháp

Hoa Cuc Chau Phi (17)


SỰ TẮM RỬA TRONG CHÁNH PHÁP

 

Những ai hành trì pháp

Theo chánh pháp khéo dạy

sẽ đến bờ bên kia

Vuợt ma lực khó thoát.

PC.86.

 

Đạo Phật là con đuờng giác ngộ, nhận biết rõ đích thực bản chất của mọi sự vật hiện tuợng nơi cuộc sống quanh ta, và chính ta để chuyển tiếp tịnh hóa thân tâm, mà đuợc hiện tại lạc trú ngay đây và bây giờ. Thế nhưng, sự thênh thang và lạc lỏng mãi miết xuôi theo dòng cảm thức trộn lẫn bởi bao cuồng nộ và mê lầm, nên sự tìm kiếm lại càng vô vọng, che ngăn trên đuờng trở về bổn xứ.

 

Sự che chuớng ngăn ngại ấy, chính do nhiều thời gian tích tập bởi những điều xấu ác, nó làm ra cái lồng vô hình giam hảm, hành phạt chúng ta trong quá trình ngược xuôi của từng khoảnh khắc, từng chập thời gian, và từng kiếp đời sanh tử. Tuy nhiên sự diệu dụng để đuợc chuyển hóa hay tịnh hóa thân tâm không vì vậy mà làm cản trở sự tiến bộ hướng thượng của lộ trình tâm, nếu như ta có năng lực nương tựa, biết tàm quý, có pháp hành trì để đối trị, và sự quyết định trong niềm tịnh tín đối với Tam Bảo.

 

Nhìn chung chung hiện nay, Giáo lý Đạo Phật đuợc giới thiệu rộng rãi vào nhân gian, có mặt qua từng vận hành và tốc độ phát triển của xã hội con người ngày hôm nay, như: Văn hóa, mỹ thuật tranh ảnh, kiến trúc, truyền thông.v.v… Đông cũng như Tây.

 

Về mặt cơ sở vật chất trong cũng như ngoài nước, không ai bảo ai, gần như rầm rộ thi nhau thực hiện những mô hình tổng thể đồ sộ, những trưng bày không kém phần lộng lẫy vương giả, xem như thời kỳ phát triển cơ sở hạ tầng, đưa hình ảnh đạo Phật vào đời là điều không thể thiếu, những tưởng sẽ trở thành những thắng cảnh gọi là “du lịch tâm linh” gì đó, hay để có đuợc những kỳ tích ở ngàn năm sau.

 

Thứ nữa, về mặt giáo lý cũng như các Tông phái Phật giáo đã đuợc Đức Phật, và chư tôn Thiền Tổ xiễng dương từ ngàn xưa, đã trở thành một đạo lộ tu tập duy nhất, đó là Giới-Định-Tuệ, hay nói rộng ra là 37 phẩm trợ đạo và những pháp cơ bản khác, để đuợc đắc nhập Thánh quả, thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, mục đích đưa đến chấm dứt đau khổ, vượt thoát tử sanh, tịch tịnh Niết bàn. Nếu nói đến sức mạnh, thì đây mới thật là sức mạnh của Đạo Phật.

 

Thế nhưng, từ hơn thập niên truớc đây, điều đã có xảy ra là sự thổi lồng vào bao phương thức tín ngưỡng, cầu vọng, van xin, để chiêu cảm lòng tin từ hằng triệu tâm hồn luân lạc giữa bao chất liệu cuộc đời tục lụy, để bám bíu, để giữ lấy trong bàn tay, để hóa trang ý tưởng thời cuộc, để thụ hưởng những lạc thú thấp kém thường tình một khi đối diện trước quy luật vô thường, khổ, vô ngã. Mặc dù trong những hành giả ấy tưởng chừng thế giới cực lạc hay cõi tịnh độ bình đẳng vô tranh, với vô luợng công đức, với vô lượng hào quang và tuổi thọ… đang ở truớc mặt, mà họ chỉ cần bước những bước chân suông suồng là vào đuợc, là đến đuợc.

 

Đức Phật có lần hỏi khi đến trú xứ của Bà la môn Sagarava, là nhà “Tịnh Thủy hành” tại thành Savatthi (Xá Vệ) như sau : “… có đúng vậy không, nầy Bà la môn ? với mục đích gì mà ông tin tưởng… ?”

 

Được trả lời : “ Với mục đích rửa sạch hắc nghiệp, tin tưởng vào nước thanh tịnh, nên sáng chiều xuống nuớc… Nếu ban ngày tôi làm ác nghiệp, thì chiều tôi xuống tắm để gội sạch ác nghiệp ấy, buổi tối tôi làm ác nghiệp gì, thì buổi sáng hôm sau tôi xuống tắm để gội sách ác nghiệp ấy. Đó là mục đích của tôi là như vậy !”

                                                                                                Kinh Tương ưng, 1, 182.

 

Với dòng tâm thức chấp vào cái biết, bám níu và thực hiện pháp hành như thế, chính là một trong những nguyên nhân đưa đến tái sanh và khổ đau. Mọi hành động ác quấy do mình tạo ra lại đuợc sự dung túng bởi ý tuởng tà tin tà niệm tà tư duy như thế, nó không thể vô hiệu đạo lý nhân quả mà đức Phật hay chư Thánh đức đã trình bày.

 

Do đó, sau khi nghe Bàlamôn Sagarava trình bày trên, Đức Phật nói lên lời kệ, nhằm chuyển hóa tâm thức người Bàlamôn nầy như sau :

 

“Chánh pháp là ao hồ

Giới là bến nước tắm

Không cấu uế, trong sạch

Được thiện nhân tán thán.

Là chỗ bậc có trí

Thường tắm trừ uế tạp

Khi tay chân trong sạch

Họ qua bờ bên kia” 

Kinh Tương Ưng I, 182.

 

Chúng ta luôn kiên định với một niềm tin rằng : chánh pháp của chư Phật luôn tồn tại giữa muôn sự biến ảo vô cùng của dòng nghiệp chuyển lên hay xuống của con người trong thế gian, cho dù dưới bao vận hành của một cơ chế xã hội nào trên hành tinh nầy. Đồng thời, qua mọi hình thức phát sinh tha hóa, uể oải của những hành sự, cho dù đó là một đơn vị, hay nhân danh nào đi nữa, nếu không phù hợp với tinh thần “tuỳ duyên bất biến” thì coi như cái bóng đen loạn choạn, rồi cũng phải đi qua, tàn phai và tắt mất. Bởi vì, sự truyền thừa tiếp nối dòng mạch mạng của Đạo Phật chính là sự “ấn tâm truyền tâm”, sự ấn truyền tâm ấy từ pháp mầu của Diệu hạnh, Chánh hạnh, Như lý hạnh, và Trực hạnh, mắt Phật sinh nơi tâm nầy “nhứt điểm tâm đăng Phật nhãn sinh…”, vượt thoát mọi cơ cấu hình thức, tổ chức, danh phận.v.v… của thế gian.

 

Nếu một mặt chỉ cổ xướng về hình thức tín ngưỡng quá nhiều đến với mọi người qua sự cầu nguyện hay ước nguyện, điều ấy sẽ trở thành vô số sự chấp thủ cái “tôi, cái bản ngã”, nếu được, dễ tạo nên sự tự phụ, tự mãn hay không đuợc thỏa mãn, sẽ dẫn đến thất vọng chán chường, thối thất niềm tin.v.v… Mặc khác, nếu không gia tăng sự tu tập, không sống và an trú vào pháp của bậc Thánh, thì khác nào “cành lá của phạm hạnh” tự đắc danh xưng, đánh liều cho ngày tháng đi qua, mặc tình cho cuộc ruỗi dong phù phiếm vô định.

 

Ở một thời điểm khác, cũng tại thành phố Savatthi, vườn ông Cấp cô độc (Anathapindika), nơi đây Đức Phật có giải thích về những ác pháp, những pháp nầy làm cấu uế, nhơ bợn cho tâm, như : “Nầy các tỳ kheo, khi nào chư tỳ kheo biết được rằng “ tham dục, tà tham là cấu uế của tâm”, tham dục tà tham đuợc diệt trừ… “phẩn, hận, hư ngụy, nảo hại, tật đố, xan tham, man trá, khi cuống… là cấu uế của tâm… đuợc diệt trừ…”

                                                                                                        Kinh Trung Bộ số 7.

 

Chừng ấy, chúng ta cũng đủ thấy rằng ; muốn tiếp nối ngọn truyền đăng đuợc sáng soi từ nơi mắt Phật, muốn tịnh hóa thân tâm vuợt thoát khổ đau, chấm dứt tử sinh, là phải chính mình tự thấy mình với bao nhiêu pháp cấu uế ở trên, sau khi nhận diện, biết rõ và trừ diệt các pháp ấy, đó là cảnh giới tâm thức siêu hóa ngay trong hiện tại. Đây là một sự dừng lại bất tuyệt trên những buớc kỳ cùng phiêu bạt xưa nay theo muôn dặm đuờng mây. Đồng thời, với lời dạy rất mực cho thế gian, là một sự đóng góp đích thực bình an cho loài người hơn bao giờ hết, đó là Đức Phật nói với Bà la môn Sundarika về ý nghĩa sự tắm rửa như sau :

 

“…Kẻ ngu dầu thường tắm

Ác nghiệp không rửa sạch

Không thể rửa nghiệp đen

của kẻ gây ác tội….

“Nầy Bà La Môn

Chỉ nên tắm ở đây

Khiến mọi loài chúng sanh

Được sống trong an ổn

Nếu không nói dối trá,

Nếu không hại chúng sinh

Không lấy của không cho

Có lòng tin khôngtham,

Đi Gayà làm gì,

Gayà một giếng nước.!”

  Trung bộ kinh số 7.

 

Có thể nói lời dạy của Đức Phật luôn phát xuất từ nền tảng nhân bản, và luôn tạo nên muôn vẽ đẹp tinh túy, và an bình cho đời sống nhân bản ấy tự ngàn xưa và cho đến mãi tận ngàn sau. Và đã là sự thắp sáng nhân bản ấy từ nơi lời dạy của Đức Phật, đó là nơi gội rửa tâm hồn cho những ai có sự cần cầu hướng thượng, mà cũng là nơi tu hội những bậc hiền trí, thức giả, để từ đó tỏa ra khắp mọi phương trời du hóa, vì lợi ích an lạc cho chúng sinh, chư thiên hướng về sinh lộ bình an hiện tại và mai sau.

 

Thiển nghĩ, nếu như có sự diệu dụng ban tặng và tự thân hành trì đúng pháp như lời Phật dạy, không để lạc hút vào những mê lộ thế gian, không bị sự sai xử theo dòng lực cảm thọ hấp dẫn từ phía thế gian, không bị lợi dưỡng danh vị thế quyền chi phối. Đấy là điều “Vượt ma lực khó thoát” đối với người đệ tử Phật và cũng là một hành động thiết thực giới thiệu đạo lý giác ngộ vào đời, muôn trùng hạnh phúc và yên bình luôn được tươi mát bất tận trong nhân gian.

 

                                                                                                   Louisiana, tháng 12.2014.

                                                                                                         MẶC PHƯƠNG TỬ.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/12/2014(Xem: 9121)
Nhân mùa lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) vào ngày Thứ Bảy 22 tháng 11, năm 2014, trong khuôn viên chùa Tuệ Viên tại San Jose, CA, Hoa Kỳ, Hội Phụ Huynh Học Sinh (HPHHS) Trường Việt Ngữ Tuệ Viên đã tổ chức một buổi lễ “Tri Ân Quý Thầy Cô” thành viên hiện đang điều hành trường. Trường Việt Ngữ Tuệ Viên được thành lập vào tháng 2, năm 2012 và trực thuộc chùa Tuệ Viên do Thầy Thích Minh Thiện trụ trì. Dưới sự điều hành của Thầy hiệu trưởng đương nhiệm, Thầy Thích Phổ Hòa, trường bao gồm 14 thành viên trong Ban Điều Hành cùng 70 em học sinh theo học các lớp từ mẫu giáo đến lớp năm. Tại chùa, vào mỗi Thứ Bảy từ 10 giờ sáng đến 12:30 trưa các em được quý Thầy Cô hướng dẫn niệm Phật, thiền tập, tu học Phật pháp, trau giồi Việt ngữ và sinh hoạt tập thể.
06/12/2014(Xem: 8289)
"Mỗi con người là một người tự do, dù đó là con gái hay con trai, phụ nữ hay đàn ông và được tạo dựng vì thiện ích của mọi người trong sự bình đẳng và tình huynh đệ. Chế độ nô lệ mới, dưới những hình thức buôn người, cưỡng bức lao động, mại dâm, buôn bán nội tạng, và bất kỳ mối tương quan nào không tôn trọngxác tín căn bản rằng mọi người đều bình đẳng và có quyền tự do và phẩm giá như nhau, là một tội ác chống lại nhân loại."
03/12/2014(Xem: 8184)
Cho tới hôm nay (30/11/2014), những khóa An Cư Kiết Đông theo truyền thống Làng Mai đã đồng loạt bước vào lịch trình tu tập nghiêm trì đúng 2 tuần lễ. Tăng thần Làng Mai trên khắp thế giới đều khai đàn An Cư Kiết Đồng 3 tháng, bắt đầu từ giữa tháng 11 năm này, qua tới giữa tháng 2, năm kế tiếp. Cũng theo truyền thống, tuy Sư Ông thường ở tại Làng Mai (Pháp Quốc) trong 3 tháng An Cư Kiết Đông, nhưng những Lễ Truyền Đăng, Lễ Thọ Giới, sinh hoạt đặc thù tại Pháp mà Sư Ông hướng dẫn thường được nối mạng trực tiếp tới Tăng Thân khắp nơi để cùng cảm nhận sự hiện diện của Sư Ông. Năm nay, tuy Sư Ông còn đang nằm bệnh viện, nhưng những hình ảnh của Lễ Đếm Thẻ, Lễ Đối Thú An Cư khắp nơi đang phổ biến, cho thấy năng lượng tu tập của Tăng Thân khắp chốn như không hề thiếu sự hiện diện của Sư Ông. Đây là năng lượng hùng tráng mà những ai tham dự khóa tu đều có thể dễ dàng cảm nhận được. Bất giác, nhớ tới một bài viết cũ, tinh thần có liên quan tới sự việc hiện tại, tác giả xin chia sẻ, thay lời c
02/12/2014(Xem: 7439)
Theo tin được phổ biến bởi “Tin Tức Nhân Dân” (People’s News) của Trung Quốc thời có một chuyện bất ngờ xảy ra ở Hong Kong, nghe có vẻ khó tin nhưng lại có thật. Tờ “Tin Tức Thế Giới Hàng Tuần” (Weekly World News) tường thuật rằng có một nhóm nhân công dắt một con trâu vào trong một lò sát sinh để sửa soạn giết thịt làm bíp-tết và hầm ra-gu.
02/12/2014(Xem: 8177)
Springdales. Ngài đã được hiệu trưởng, bà Ameeta Mulla Wattal và hội đồng cùng người sáng lập trường, Rajni Kumar, năm nay đã 90 tuổi, cung đón nồng nhiệt tại trường. Trường Springdales được bà thành lập vào năm 1955 với mục đích đem lại cho người học một chương trình đào tạo toàn diện và một hệ thống giá trị nhân văn bao gồm các giá trị phổ quát như tình yêu thương, chân lý và trí tuệ.
27/11/2014(Xem: 11639)
Gần cả cuộc đời dành cho nghiên cứu và truyền bá Phật pháp, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đúc kết ra triết lý sống, thể hiện trong những câu nói giàu tính suy tưởng và chiêm nghiệm, khiến người ta nhớ mãi.
27/11/2014(Xem: 8016)
Nhìn là cái gì quen thuộc với chúng ta , mà cũng là rất xa lạ. Cái gần nhất có khi lại là cái xa lạ nhất. Có lúc nó hiện ra như dòng thác lũ phiền não nhận chìm con người. Có lúc khơi dậy những nét đẹp của cuộc sống, sự thật và hạnh phúc. Nó trở nên bí mật. Nó gây kinh ngạc, và chính nó là sự kinh ngạc.
25/11/2014(Xem: 19285)
Thiền sư Thích Nhất Hạnh chia sẻ: "Trong thư pháp của tôi, có mực, trà, hít thở, chánh niệm và tập trung. Viết thư pháp là một môn thiền định..."
23/11/2014(Xem: 9600)
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. ( Chinh Phụ Ngâm Khúc) Trong cuộc sống có những ân tình, nhưng vì hoàn cảnh, hay vì lý do nào đó không trả được, tôi ghi mãi trong lòng, ấp ủ sâu thẳm tận trái tim như báu vật để rồi một lúc nào đó chợt nhớ lại, trân trọng với lòng tri ân vô bờ bến.
22/11/2014(Xem: 28275)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]