Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ân Thầy

20/11/201418:45(Xem: 7369)
Ân Thầy

An_Su_ (3)

 



Hôm nay ngày Nhà Giáo

Con lắng đọng tâm tư

Hồi tưởng lời dạy bảo

Con cảm niệm Ân Sư

 

Cái ngày ấy con lang thang vô định. Trải qua “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” bao nhiêu thăng trầm của kiếp sống nhân sinh, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu kỳ vọng, bao nhiêu dong ruổi kiếm tìm, bao nhiêu trượt ngã, thất bại, thất vọng não nề, bao nhiêu chán nản buồn thương uất hận với kiếp sống, con quyết định dừng cuộc phiêu lưu, vào Thiền môn “tìm lãng quên trong tiếng Kệ câu Kinh”. Bộ dạng của con hôm đó thật thiểu não, bơ phờ, thất thểu. Cửa Thiền vẫn rộng mở, lòng Từ Bi của Thầy bao dung tất cả, âu đó là cái duyên và con được nhận vào hàng ngũ xuất gia, nếu không thì chẳng biết đời con sẽ trôi giạt về đâu.

An_Su_ (5)

Thuở ấy, sách vở bút nghiên gắn liền với danh lợi đã làm con mỏi mệt ngán ngẩm rồi cho nên con không muốn học cái gì nữa, cho dù là học Kinh, mà chỉ muốn tụng niệm qua ngày và quán tưởng. Thế nhưng Quý Thầy an ủi sách tấn con : “Con vào chùa càng phải học nhiều hơn nữa, học Kinh, nghiên tầm Tam Tạng Thánh Điển để biết đạo lý cuộc sống có hướng tu tập để độ mình, độ người và sau này thay thế Quý Thầy và tiếp dẫn hậu lai”. Thế là duyên nợ của con với bút nghiên và sách vở vẫn còn. Thầy tặng cho con cuốn Sa Di Luật Giải và một số sách. Lãnh ý chỉ của Thầy con say sưa mài miệt học Kinh, vừa chấp tác : tưới rau, phụ thợ hồ, kéo đất, … vừa mang theo những miếng giấy nhỏ để học. Ban đêm con ngồi học tin tấn cho đến khi ngủ thiếp đi. Chính vì vậy mà con học thuộc Kinh Điển, hai thời công phu, Oai Nghi Cảnh Sách và Sa Di Luật Giải với tốc độ kỷ lục.

Gọi là con làm thị giả cho Thầy nhưng lúc đó thị giả là 2 người, cho nên bây giờ con hồi tưởng lại thấy bổn phận thị giả của con chưa tròn. Con lúng túng vụng về trong việc quét dọn nhà cửa, thay hoa bàn Phật, pha trà, giặt đồ, nấu cháo … cho Thầy. Nhưng vì thương con có chí tu học nên Thầy không để ý quở trách những điều đó. Con học được Thầy thật nhiều cả ba phương diện : Thân Giáo, Khẩu Giáo, Ý Giáo. Thầy là bậc Cao Tăng tinh cần trong tu tập, sinh hoạt. Lịch sinh hoạt mỗi ngày của Thầy là : 3 giờ sáng thức dậy, 3h15’ uống trà sữa rồi cho chó ăn, 3h30’ công phu khuya, 5h nghe đài VOA, BBC, tin tức, 5h15 quét dọn tưới cây, 6h30’ chỉ đạo lực lượng các chú đi làm vườn hoặc coi ngó thợ xay cất, 9h sáng tụng Kinh, 11h thọ Trai, 13h30’ uống trà 14h : Chỉ đạo làm vườn hoặc coi công thợ xây cất, 15h : Tụng Kinh, 16h30 : Dược thực, 17h30’-19h : Tiếp khách, trò chuyện, 19h tụng kinh, 20h30’ nghe đài, trò chuyện và nghỉ ngơi. 21h15’ nghe băng Niệm Phật, nghe đài và chỉ tịnh vào đêm. Một thời khóa biểu chặt chẽ và đều đặn như vậy trong đó có công phu 4 thời/ ngày và nghe niệm Phật vào ban đêm cho dù Thầy đã lớn tuổi. Thật là một tấm gương tu tập sáng ngời hiếm có! Con thường kê bàn nhỏ ngồi học bài và Thầy thường nằm võng kể chuyện con nghe cũng như con được làm thị giả lắng nghe câu chuyện giữa Thầy với các bậc Cao Tăng Thạc Đức qua đó con biết được tấm lòng bao la sắt son vì Đạo của Thầy, tùy duyên phương tiện và dụng tâm lao khổ độ chúng. Thầy là người lãnh phần chia tài sản gia đình rồi bán đất bán vườn lấy tiền vào nuôi Tăng chúng. Thầy là người chống gậy đi xung quanh vườn, liều thân già để giữ từng tấc đất cho Tu Viện thuở chùa rào giậu chưa ổn định, nhiều thành phần lấn đất đai quậy phá. Với các chú tiểu thì có gì Thầy cũng cho hết, ngược lại với con cháu gia đình đến thăm Thầy thì Thầy không cho gì, tập cho họ biết cúng dường và đừng chờ hưởng từ ân đức của người thân xuất gia.

An_Su_ (4)

Cái ngày con chia tay vào học Đại Học Vạn Hạnh Saigon, Thầy bảo các chú hái rau muống về đãi với bánh tráng cuốn cho con. Thầy cho con cái xe đạp trắng ngày xưa của Thầy với tất cả Kinh Sách trong tủ muốn mang theo quyển nào thì mang. Quả thật con nhận được tình thươnng và ân huệ đặc biệt, ai thuở giờ lại “chở củi vào rừng”? Chưa hết, Thầy còn gửi cho con mỗi tháng 200 ngàn ( thời đó, vậy là khá lớn) để đi đóng tiền học thêm ngoại ngữ Anh Văn, Hoa Văn. Khi Thầy đi điều trị bệnh tại Saigon, ai đi thăm cho Thầy món gì, Thầy cũng hỏi con có cần không và Thầy cho lại, mỗi lần con thăm bệnh mang về bao nhiêu là sữa đường, bột, vải vóc,… Đến ngày con Thọ Đại Giới tại Ấn Quang, Thầy đem chìếc Y Thầy gìn giữ hơn 40 năm trao lại cho con. Theo truyền thống của Phật Giáo, đó có nghĩa là truyền Y Bát và ấn chứng cho con. Ngày con du học Ấn Độ, Thầy cho con một chiếc áo nhật bình đà cũ bạc màu, Thầy nói : “Phật Pháp tùy duyên, các con muốn ở Việt Nam hay đi Tàu, đi Tây gì cũng được, nhưng làm sao cũng phải giữ được chiếc áo và làm tròn bổn phận người Tu”. Một câu nói thật là ngắn gọn đơn sơ nhưng hàm chứa biết bao nhiêu là ý nghĩa, hơn 17 năm trời con đi đó đây khắp chốn nhưng lời dạy của Thầy con vẫn mãi canh cánh bên lòng.

An_Su_ (1)

Cho dù con học xong Cao Học hay Tiến Sỹ, tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông Tây nhưng mỗi lần trở về thăm lại liêu cốc của Thầy, lắng nghe tiếng tụng Kinh của Thầy, lòng con ấm lại, con được tiếp thêm bao nguồn năng lực mới mà bao năm tháng dặm trường con đã bị phôi pha và tiêu hao. Chỉ cần hình bóng thân thương, nụ cười hiền hòa, tiếng tụng kinh trầm ấm, lời dạy bảo đơn sơ giản dị của Thầy thôi chứ không phải là thiên kinh vạn điển khác, đó lại là hành trang tâm linh vô giá, giúp con vẫn còn đứng vững và vươn tới trước bao nhiêu nghịch cảnh, nghiệp chướng, những lúc tưởng chừng như con gục ngã và cuốn theo dòng nghiệp triền miên!

Ngày tại Ấn Độ hay tin Thầy viên tịch con bàng hoàng thổn thức, một trời yêu thương và che chở cho con đã sụp đổ. Đến Delhi Ladakh Budh Vihar làm Lễ thọ Tang Thầy con xúc động rưng rưng. Đó quả thật là một tổn thất to lớn không gì bù đắp được của đời con. Con dâng cơm cúng và phát nguyện trọn đời tu học theo gương của Thầy. Đến nay, cứ mỗi giỗ Thầy hàng năm, tuy rằng đã là hàng xuất gia hàng ngày quán sát đoạn trừ ái nhiễm vướng chấp, nhưng con không làm sao ngăn được đôi dòng lệ nóng thay cho lời tri ân muộn màng khi hồi tưởng về công hạnh của Thầy và những ân tình kỷ niệm năm xưa. Dù cho lạy Thầy bao nhiêu ngàn lạy con vẫn chưa thấy đủ. Gặp một bậc minh Sư chân tu Thạc Đức như Thầy là một duyên phước rất lớn của đời con.

Nay đến ngày 20/11 năm 2014, ngày Tôn Sư Trọng Đạo, con gạt bỏ những duyên sự khác để có những phút giây lắng đọng hồi tưởng về hình ảnh Thầy quý kính. Cây cỏ vẫn còn đó, bàn ghế vẫn còn đây, chúng điệu vẫn đang sinh hoạt và trưởng thành nhưng “người lái đò” năm xưa đã cập bến nghỉ ngơi và không còn thấy nữa. Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương, Người đã ra đi nhưng Người vẫn còn ở lại. Chúng con an ủi với nhau rằng : Người đã cho chúng ta như thế là quá đủ, Người đã thể hiện trọn vẹn vai trò Xuất Trần Thượng Sỹ cao quý trong kiếp nhân sinh. Chúng ta còn trông chờ gì ở Người nữa. Khi mê Thầy độ, khi ngộ con tự độ con. Hình ảnh, ân tình và những lời Pháp nhũ của Thầy vẫn còn sống mãi trong chúng con suốt bao dặm trình tu tập. Một lần nữa, cho con được chắp tay thành kính đảnh lễ Giác Linh Người, một bậc Thầy cao quý đã trưởng dưỡng Giới Thân Huệ Mạng và chăm chút con được như hôm nay. Nếu Người còn trở lại cõi Ta Bà thì kiếp sau con vẫn mong được làm đệ tử của Người để tiếp tục thọ giáo và làm một thị giả tốt hơn phụng dưỡng Thầy. Con nguyện tiếp nối hành trình của Thầy : phát triển Tu Viện, kế vãng khai lai, làm một người tu cho đúng nghĩa,…Bao nhiêu năm gắn kết, cho dù giờ này ngôn ngữ trần gian không sao diễn tả hết được, nhưng Thầy vẫn cảm thông cho tấm lòng và nỗi niềm của con. Nguyện Thầy chứng minh và gia hộ cho con đi trọn vẹn con đường, noi theo dấu Như Lai.

 

 

NGUỒN THƯƠNG LẼ SỐNG

Có giây phút bỗng hóa thành lịch sử,

Đã qua đi nhưng muôn thuở không mờ

Có giây phút bỗng trở thành kỷ niệm

Ôi thiêng liêng ! Ôi tuyệt diệu ! Nên thơ !

 

Có những người đến trong đời của bạn

Rồi chia xa, chia xa mãi – trọn đời

Nhưng tất cả đã trở thành ánh sáng

Như bình minh rạng rỡ một chân trời.

 

Nếu ai hỏi: Có gì là đẹp nhất ?

Tôi trả lời: Thời thị giả của tôi .

Nếu ai hỏi: Có bao giờ thấy Phật ?

Tôi sẽ cười: Phật đâu ở xa xôi ?

 

Vâng, với con, Ông mãi là tất cả

Là nguồn thương, là lẽ sống cuộc đời.

Ông xa quá mà cũng gần gũi quá !

Lưu trong con tình nghĩa nặng muôn đời.

 

Rồi những lúc trong dòng đời xuôi ngược

Tháng năm dài con phải sống ly hương

Ân tình đó theo con từng nhịp bước

Là hành trang suốt bao quãng đường trường

 

Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/2014

                      Thích Đồng Trí

                   (Thích Minh Tuệ)

An_Su_ (5)An_Su_ (4)An_Su_ (2)An_Su_ (1)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/05/2021(Xem: 3959)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 7424)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 7685)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5683)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
27/04/2021(Xem: 4353)
Đêm yên tĩnh. Nhìn ra khung kiếng cửa sổ chỉ thấy một màu đen, đậm đặc. Cây cối, hàng giậu, lẳng hoa, bồn cỏ, ghế đá, và con đường ngoằn ngoèo trong công viên, có thể sẽ khó cho khách bộ hành nhận ra vị trí và thực chất của chúng. Cây bên đường có thể bị nhầm là kẻ trộm đối với cảnh sát, và sẽ là cảnh sát đối với kẻ trộm (1). Giây thừng hay con rắn. Con chim hay con quạ. Con sóc hay con mèo. Người hay quỉ. Mọi vật đều một màu đen. Trong bóng đêm, mọi thứ đều dễ trở nên ma mị, huyễn hoặc.
27/04/2021(Xem: 4140)
Cũng như tình trạng nghiêm trọng của Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma trẻ tuổi chỉ có thể theo đuổi một trong ba trường hợp – chiến đấu, bỏ chạy, hay đàm phán. Ngài có thể tập họp lại đội quân ít ỏi, vũ khí thô sơ, rèn luyện sơ sài và đưa họ đối mặt với một lực lượng quân sự mạnh mẽ vượt trội, biết rằng ngài gần như chắc chắn đang kết án tử hình cho đội quân của ngài và xứ sở của ngài cuối cùng sẽ bị đánh bại. Ngài có thể trốn chạy khỏi đất nước, nhưng như vậy sẽ để lại dân tộc ngài không có lãnh đạo và vẫn chịu sự thương hại của những kẻ xâm lược. Hay, ngài vẫn ở lại Tây Tạng và cố gắng để đàm phán một thỏa hiệp với Tàu Cộng để bảo vệ dân tộc ngài và nền văn hóa của họ. Để thực hiện một quyết định đúng đắn, ngài phải biết hơn về Trung Hoa.
27/04/2021(Xem: 6581)
Được sự cho phép của lãnh đạo chính quyền và sự trợ duyên của nam nữ Phật tử, câc nhà hảo tâm khắp nơi, chùa Diên Khánh đã khởi công trùng tu ngôi Tam Bảo vào ngày 12/3 năm Tân Sửu, nhưng kinh phí còn quá khiêm tốn, nên việc tái thiết trùng tu ngôi chánh điện đang dang dở, trì trệ... Nay nhà chùa một lần nữa tha thiết đăng lại bức "Thư Ngỏ", kính gửi lời đến quý đạo hữu, nhà hảo tâm, Phật tử gần xa để công việc trùng tu sớm được hoàn thành.
19/04/2021(Xem: 11708)
Phật Điển Phổ Thông DẪN VÀO TUỆ GIÁC PHẬT Common Buddhist Text: Guidance and Insight from theBuddha. Copyright by Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU). Chủ biên bản Việt ngữ: LÊ MẠNH THÁT - TUỆ SỸ Ban biên dịch: Thích Hạnh Viên, Thích Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình. Dịch Việt và Ấn hành với Hợp đồng chuyển nhượng bản quyền của Viện Đại Học Mahachulalongkorn-rajavidyalaya (MCU), Thái-lan, 2018. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019. Hương Tích ấn hành.
15/04/2021(Xem: 9781)
Bài viết này (phần B) cập nhật và tóm tắt buổi trình bày về bài viết "Tản mạn về tiếng Việt và Hán Việt: tại sao Trung Quốc dùng danh từ khoái 筷 còn Việt Nam dùng đũa (trợ 箸)?" tại hội thảo UNC2021_0116 tại Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN (sẽ diễn ra vào ngày 24/4/2021). Các trang bên dưới được trích từ các trang của Power Point Presentation, dựa vào bài viết đã đăng và dán lên đây theo dạng word cho dễ đọc hơn.
15/04/2021(Xem: 7353)
Chúng ta thường biết là Vi Diệu Pháp là Tạng của Nguyên Thủy áp dụng tu học ngày nay rất phổ biến. Tạng này cũng nói về Tâm và nghiên cứu sâu rộng. Riêng Đại Thừa thì có Duy Thức Luận cũng tương tự chỉ khác là có 2 thức Mạc Na Thức số 7 và Tạng Thức số 8. Vi Diệu Pháp là do Xá Lợi Phất giảng còn Duy Thức Luận là do Vô Trước Thế Thân giảng, tất cả đều do Bồ Tát mở rộng ra mà thôi và là Luận tức là luận bàn do qui từ nhiều kinh lại và không do Phật giảng. Xá lợi Phất giảng Vi Diệu Pháp do Phật giảng trên cõi trời cho mẹ của Phật còn Vô Trước Thế Thân giảng là do Phật Di Lạc giảng cũng trên cõi trời. Bài viết nầy chủ yếu đưa ra khái luận về Tâm Thức theo hai phái Nguyên Thủy và Đại Thừa dựa vào Phân Tâm Học ngày nay. Chúng ta nghiên cứu trên căn bản tâm lý học về tạng Vi Diệu Pháp và Duy Thức Luận.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]