Hôm nay ngày Nhà Giáo
Con lắng đọng tâm tư
Hồi tưởng lời dạy bảo
Con cảm niệm Ân Sư
Cái ngày ấy con lang thang vô định. Trải qua “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh” bao nhiêu thăng trầm của kiếp sống nhân sinh, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu kỳ vọng, bao nhiêu dong ruổi kiếm tìm, bao nhiêu trượt ngã, thất bại, thất vọng não nề, bao nhiêu chán nản buồn thương uất hận với kiếp sống, con quyết định dừng cuộc phiêu lưu, vào Thiền môn “tìm lãng quên trong tiếng Kệ câu Kinh”. Bộ dạng của con hôm đó thật thiểu não, bơ phờ, thất thểu. Cửa Thiền vẫn rộng mở, lòng Từ Bi của Thầy bao dung tất cả, âu đó là cái duyên và con được nhận vào hàng ngũ xuất gia, nếu không thì chẳng biết đời con sẽ trôi giạt về đâu.
Thuở ấy, sách vở bút nghiên gắn liền với danh lợi đã làm con mỏi mệt ngán ngẩm rồi cho nên con không muốn học cái gì nữa, cho dù là học Kinh, mà chỉ muốn tụng niệm qua ngày và quán tưởng. Thế nhưng Quý Thầy an ủi sách tấn con : “Con vào chùa càng phải học nhiều hơn nữa, học Kinh, nghiên tầm Tam Tạng Thánh Điển để biết đạo lý cuộc sống có hướng tu tập để độ mình, độ người và sau này thay thế Quý Thầy và tiếp dẫn hậu lai”. Thế là duyên nợ của con với bút nghiên và sách vở vẫn còn. Thầy tặng cho con cuốn Sa Di Luật Giải và một số sách. Lãnh ý chỉ của Thầy con say sưa mài miệt học Kinh, vừa chấp tác : tưới rau, phụ thợ hồ, kéo đất, … vừa mang theo những miếng giấy nhỏ để học. Ban đêm con ngồi học tin tấn cho đến khi ngủ thiếp đi. Chính vì vậy mà con học thuộc Kinh Điển, hai thời công phu, Oai Nghi Cảnh Sách và Sa Di Luật Giải với tốc độ kỷ lục.
Gọi là con làm thị giả cho Thầy nhưng lúc đó thị giả là 2 người, cho nên bây giờ con hồi tưởng lại thấy bổn phận thị giả của con chưa tròn. Con lúng túng vụng về trong việc quét dọn nhà cửa, thay hoa bàn Phật, pha trà, giặt đồ, nấu cháo … cho Thầy. Nhưng vì thương con có chí tu học nên Thầy không để ý quở trách những điều đó. Con học được Thầy thật nhiều cả ba phương diện : Thân Giáo, Khẩu Giáo, Ý Giáo. Thầy là bậc Cao Tăng tinh cần trong tu tập, sinh hoạt. Lịch sinh hoạt mỗi ngày của Thầy là : 3 giờ sáng thức dậy, 3h15’ uống trà sữa rồi cho chó ăn, 3h30’ công phu khuya, 5h nghe đài VOA, BBC, tin tức, 5h15 quét dọn tưới cây, 6h30’ chỉ đạo lực lượng các chú đi làm vườn hoặc coi ngó thợ xay cất, 9h sáng tụng Kinh, 11h thọ Trai, 13h30’ uống trà 14h : Chỉ đạo làm vườn hoặc coi công thợ xây cất, 15h : Tụng Kinh, 16h30 : Dược thực, 17h30’-19h : Tiếp khách, trò chuyện, 19h tụng kinh, 20h30’ nghe đài, trò chuyện và nghỉ ngơi. 21h15’ nghe băng Niệm Phật, nghe đài và chỉ tịnh vào đêm. Một thời khóa biểu chặt chẽ và đều đặn như vậy trong đó có công phu 4 thời/ ngày và nghe niệm Phật vào ban đêm cho dù Thầy đã lớn tuổi. Thật là một tấm gương tu tập sáng ngời hiếm có! Con thường kê bàn nhỏ ngồi học bài và Thầy thường nằm võng kể chuyện con nghe cũng như con được làm thị giả lắng nghe câu chuyện giữa Thầy với các bậc Cao Tăng Thạc Đức qua đó con biết được tấm lòng bao la sắt son vì Đạo của Thầy, tùy duyên phương tiện và dụng tâm lao khổ độ chúng. Thầy là người lãnh phần chia tài sản gia đình rồi bán đất bán vườn lấy tiền vào nuôi Tăng chúng. Thầy là người chống gậy đi xung quanh vườn, liều thân già để giữ từng tấc đất cho Tu Viện thuở chùa rào giậu chưa ổn định, nhiều thành phần lấn đất đai quậy phá. Với các chú tiểu thì có gì Thầy cũng cho hết, ngược lại với con cháu gia đình đến thăm Thầy thì Thầy không cho gì, tập cho họ biết cúng dường và đừng chờ hưởng từ ân đức của người thân xuất gia.
Cái ngày con chia tay vào học Đại Học Vạn Hạnh Saigon, Thầy bảo các chú hái rau muống về đãi với bánh tráng cuốn cho con. Thầy cho con cái xe đạp trắng ngày xưa của Thầy với tất cả Kinh Sách trong tủ muốn mang theo quyển nào thì mang. Quả thật con nhận được tình thươnng và ân huệ đặc biệt, ai thuở giờ lại “chở củi vào rừng”? Chưa hết, Thầy còn gửi cho con mỗi tháng 200 ngàn ( thời đó, vậy là khá lớn) để đi đóng tiền học thêm ngoại ngữ Anh Văn, Hoa Văn. Khi Thầy đi điều trị bệnh tại Saigon, ai đi thăm cho Thầy món gì, Thầy cũng hỏi con có cần không và Thầy cho lại, mỗi lần con thăm bệnh mang về bao nhiêu là sữa đường, bột, vải vóc,… Đến ngày con Thọ Đại Giới tại Ấn Quang, Thầy đem chìếc Y Thầy gìn giữ hơn 40 năm trao lại cho con. Theo truyền thống của Phật Giáo, đó có nghĩa là truyền Y Bát và ấn chứng cho con. Ngày con du học Ấn Độ, Thầy cho con một chiếc áo nhật bình đà cũ bạc màu, Thầy nói : “Phật Pháp tùy duyên, các con muốn ở Việt
Cho dù con học xong Cao Học hay Tiến Sỹ, tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông Tây nhưng mỗi lần trở về thăm lại liêu cốc của Thầy, lắng nghe tiếng tụng Kinh của Thầy, lòng con ấm lại, con được tiếp thêm bao nguồn năng lực mới mà bao năm tháng dặm trường con đã bị phôi pha và tiêu hao. Chỉ cần hình bóng thân thương, nụ cười hiền hòa, tiếng tụng kinh trầm ấm, lời dạy bảo đơn sơ giản dị của Thầy thôi chứ không phải là thiên kinh vạn điển khác, đó lại là hành trang tâm linh vô giá, giúp con vẫn còn đứng vững và vươn tới trước bao nhiêu nghịch cảnh, nghiệp chướng, những lúc tưởng chừng như con gục ngã và cuốn theo dòng nghiệp triền miên!
Ngày tại Ấn Độ hay tin Thầy viên tịch con bàng hoàng thổn thức, một trời yêu thương và che chở cho con đã sụp đổ. Đến Delhi Ladakh Budh Vihar làm Lễ thọ Tang Thầy con xúc động rưng rưng. Đó quả thật là một tổn thất to lớn không gì bù đắp được của đời con. Con dâng cơm cúng và phát nguyện trọn đời tu học theo gương của Thầy. Đến nay, cứ mỗi giỗ Thầy hàng năm, tuy rằng đã là hàng xuất gia hàng ngày quán sát đoạn trừ ái nhiễm vướng chấp, nhưng con không làm sao ngăn được đôi dòng lệ nóng thay cho lời tri ân muộn màng khi hồi tưởng về công hạnh của Thầy và những ân tình kỷ niệm năm xưa. Dù cho lạy Thầy bao nhiêu ngàn lạy con vẫn chưa thấy đủ. Gặp một bậc minh Sư chân tu Thạc Đức như Thầy là một duyên phước rất lớn của đời con.
Nay đến ngày 20/11 năm 2014, ngày Tôn Sư Trọng Đạo, con gạt bỏ những duyên sự khác để có những phút giây lắng đọng hồi tưởng về hình ảnh Thầy quý kính. Cây cỏ vẫn còn đó, bàn ghế vẫn còn đây, chúng điệu vẫn đang sinh hoạt và trưởng thành nhưng “người lái đò” năm xưa đã cập bến nghỉ ngơi và không còn thấy nữa. Hoa Đàm tuy rụng vẫn còn hương, Người đã ra đi nhưng Người vẫn còn ở lại. Chúng con an ủi với nhau rằng : Người đã cho chúng ta như thế là quá đủ, Người đã thể hiện trọn vẹn vai trò Xuất Trần Thượng Sỹ cao quý trong kiếp nhân sinh. Chúng ta còn trông chờ gì ở Người nữa. Khi mê Thầy độ, khi ngộ con tự độ con. Hình ảnh, ân tình và những lời Pháp nhũ của Thầy vẫn còn sống mãi trong chúng con suốt bao dặm trình tu tập. Một lần nữa, cho con được chắp tay thành kính đảnh lễ Giác Linh Người, một bậc Thầy cao quý đã trưởng dưỡng Giới Thân Huệ Mạng và chăm chút con được như hôm nay. Nếu Người còn trở lại cõi Ta Bà thì kiếp sau con vẫn mong được làm đệ tử của Người để tiếp tục thọ giáo và làm một thị giả tốt hơn phụng dưỡng Thầy. Con nguyện tiếp nối hành trình của Thầy : phát triển Tu Viện, kế vãng khai lai, làm một người tu cho đúng nghĩa,…Bao nhiêu năm gắn kết, cho dù giờ này ngôn ngữ trần gian không sao diễn tả hết được, nhưng Thầy vẫn cảm thông cho tấm lòng và nỗi niềm của con. Nguyện Thầy chứng minh và gia hộ cho con đi trọn vẹn con đường, noi theo dấu Như Lai.
NGUỒN THƯƠNG LẼ SỐNG
Có giây phút bỗng hóa thành lịch sử,
Đã qua đi nhưng muôn thuở không mờ
Có giây phút bỗng trở thành kỷ niệm
Ôi thiêng liêng ! Ôi tuyệt diệu ! Nên thơ !
Có những người đến trong đời của bạn
Rồi chia xa, chia xa mãi – trọn đời
Nhưng tất cả đã trở thành ánh sáng
Như bình minh rạng rỡ một chân trời.
Nếu ai hỏi: Có gì là đẹp nhất ?
Tôi trả lời: Thời thị giả của tôi .
Nếu ai hỏi: Có bao giờ thấy Phật ?
Tôi sẽ cười: Phật đâu ở xa xôi ?
Vâng, với con, Ông mãi là tất cả
Là nguồn thương, là lẽ sống cuộc đời.
Ông xa quá mà cũng gần gũi quá !
Lưu trong con tình nghĩa nặng muôn đời.
Rồi những lúc trong dòng đời xuôi ngược
Tháng năm dài con phải sống ly hương
Ân tình đó theo con từng nhịp bước
Là hành trang suốt bao quãng đường trường
Ngày Nhà Giáo Việt
Thích Đồng Trí