Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lặng thinh mà tỏa sáng

17/10/201420:25(Xem: 5766)
Lặng thinh mà tỏa sáng

Oakland_2 

           



Bài viết “Phật trên hè phố Oakland” của nhà báo Trần Khải, tiếp tục được tải truyền rộng rãi trên các website.

            Bài viết ghi lại đại cương sự kiện phóng viên Chip Johnson kể lại trên báo SFGate.com về một pho tượng Phật đã đem lại sự bình an, sạch sẽ cho một khu phố nhiều tội ác và rác rưởi trước đây. Chi tiết đặc biệt đã thu hút người đọc, là pho tượng Phật Thích Ca bằng đá, chỉ cao khoảng 2 feet, được đặt ở góc đường 11 và đường 19, trong khu Eastlake, thành phố Oakland , là do một người vô thần, tình cờ nhìn thấy tại một tiệm bán vật liệu xây cất.

            Bài báo tường trình rằng, anh Dan Stevenson chẳng thờ Phật, cũng chẳng thờ Chúa, cũng chẳng theo tôn giáo nào. Nói chung, Dan Stevenson là một người vô thần.

            Nhưng tôi nghĩ, tại sao một người dân bình thường và được mô tả là vô thần đó, khi nhìn thấy tượng Phật Thích Ca, lẫn lộn giữa những vật liệu xây cất, anh lại khởi lòng từ bi, mua về? Rồi chẳng phải anh chỉ mua để chưng bầy đâu đó quanh nhà, mà anh đã mang ra góc đường 11 & 19, là địa điểm khét tiếng về đủ loại tội hình sự, đồng thời cũng là bãi rác lộ thiên, nơi dân cư quanh đó cứ mang rác ra mà đổ thoải mái! Khi gắn tượng, anh còn cẩn thận hàn cứng tượng vào một khung sắt, rồi dán đáy khung xuống nền xi măng bằng một loại keo tốt, phải mua tới 35 đồng để bảo vệ tượng không bị cạy đi.

            Một người vô thần, tự động một mình làm những điều đó, lại hy vọng là tượng Phật ở đó sẽ đem bình an cho khu phố, thì người đó có thực vô thần không? Tại sao anh không mua một hình tượng nào khác mà lại là tượng Phật Thích Ca? Và điều gì khiến một người vô thần, hy vọng là pho tượng nhỏ xíu đó lại có thể đẩy lui tội ác?

            Đa số dân cư khu đó đủ mọi sắc dân da mầu, từ nghèo khó tới trung lưu. Nếu Dan Stevenson chia sẻ niềm hy vọng này của anh, trước khi gắn pho tượng xuống, có lẽ ít ai tin tưởng và đồng ý với anh, nếu không muốn nói, còn cho là anh vọng tưởng, hoang đường!

            Vậy mà, sự hiện diện của pho tượng nhỏ, nơi góc đường, đã thay đổi cả khu phố.

            Đây không thể chỉ là tình cờ. Những ai có niềm tin nơi Phật pháp, nhiều phần sẽ tin rằng Dan Stevenson đã có hạt giống bồ đề được gieo trồng kiếp trước, hay ngay kiếp này, mà chính anh không hề nhận biết. Hạt giống đó vẫn âm thầm được tưới tẩm, gặp đủ duyên là trổ quả, đơm hoa.


            Những bất ngờ cực kỳ mầu nhiệm đã khiến cả chính quyền lẫn dân chúng quanh vùng sửng sốt, là từ khi tượng Phật được an vị tại đó, thống kê về mọi loại tội phạm và phá rối, đã giảm tới 82%.

            Nơi khi trước là điểm tụ họp của các thành phần tội phạm, nay người từ khắp nơi, mọi thành phần, mọi chủng tộc ghé đến chiêm bái, tỏ lòng tôn kính.

            Nơi khi trước rác rưởi nhơ bẩn, bừa bãi, nay là hoa thơm trái ngọt người người mang đến cúng dường.

            Bài báo của phóng viên Chip Johnson mô tả điều này, cùng với lời những cảnh sát làm việc thống kê nói rằng, không thể hiểu nguyên nhân vì sao lại có sự thay đổi tuyệt hảo như vậy, chỉ nhờ một tượng Phật bằng đá!

            Nhìn trên phương diện tích môn, quả là họ không thể tin, không thể hiểu. Nhưng nếu chuyển được cái nhìn về phương diện bản môn thì sự thật hiển nhiên này có chi lạ đâu!

            Tượng Phật bằng đá đơn sơ đó, tuy lặng thinh mà tỏa sáng Pháp thân. Pháp thân Phật là tâm từ vô lượng vô biên, cực kỳ mạnh mẽ tới những tâm chí thành khẩn gọi.

            Khi xưa, năm anh em ngài Kiều Trần Như được coi là tăng đoàn đầu tiên, sau khi được Đức Phật thuyết Tứ Diệu Đế tại Lộc Uyển. Khi đó, ngài Xá Lợi Phất còn đang lang thang nay đây mai đó tìm cầu đạo sư. Một lần, tại thành Vương Xá, Xá Lợi Phất chợt thấy một vị khất sỹ trẻ, đang ôm bát khất thực. Vị khất sỹ lặng lẽ từng bước, có nói gì, làm gì đâu! Vậy mà từ nhân dáng đó đã tỏa ra năng lượng vô cùng thanh tịnh, an lạc khiến ngài Xá Lợi Phật rúng động toàn thân, đến mức không thể không đi theo, chờ vị khất sỹ đó khất thực xong, vào rừng thọ trai, rồi mới đến bên, cung kính thưa rằng:

            - Sư phụ của ngài là ai, mà ngài thọ nhận được nhân dáng đoan nghiêm nhường này!

            Vị khất sỹ đó chính là ngài A Xà Bà Thế (Assaji), người em út trong ngũ huynh đệ Kiều Trần Như. Ngài trả lời ngài Xá Lợi Phất rằng:

            - Sư Phụ tôi là Đức Phật Cồ Đàm, bậc Giác Ngộ vừa đạt đạo giải thoát.

            Ngài Xá Lợi Phất khẩn khoản xin ngài A Xà Bà Thế ban cho vài lời Đức Phật đã dạy. Từ chối không được, ngài đọc một bài kệ ngắn, lời Đức Thế Tôn:

            “Muôn vật từ duyên sinh

            Lại từ duyên mà diệt

            Bậc Giác Ngộ tuyệt vời

            Đã từng thuyết như vậy”(*)

            Vừa nghe xong bài kệ, lập tức, ngài Xá Lợi Phất thấy tâm mình bừng sáng, bèn theo về gặp Đức Phật xin thọ giáo, để không bao lâu sau, trở thành một, trong mười Đại Đệ Tử, hoằng pháp lợi sanh cho tới ngày nhập Niết Bàn.

 

            Pháp thân là như thế, lặng thinh mà tỏa sáng.

            Pháp thân cũng có thể là biểu tượng.

            Chiêm ngưỡng một bức tranh Bồ Tát Quán Thế Âm với bình tịnh thủy Cam Lồ trên tay, người chí kính thành tâm có thể cảm nhận nước Cam Lồ đang được Bồ Tát rưới cho mình, khiến phút giây, bao phiền não được đoạn tận, bao uế trần được tẩy sạch, như vừa được khai sinh mới mẻ.

            Kinh nghiệm này không lạ gì với những ai từng vững tin và am hiểu giáo pháp.

 

            Người theo pháp môn Tịnh Độ, ngồi trước tôn tượng Đức Phật A Di Đà, tĩnh tâm niệm Phật, sẽ không khó gì, khi tâm người đó nhập vào cảnh giới có chim thuyết pháp, gió đưa hương.

            Họa phẩm lặng thinh.

            Tôn tượng lặng thinh.

            Nhưng năng lượng vô hình vẫn tỏa sáng.

           

            Trong chương cuối, của Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Hòa Thượng Phước Tịnh chú giảng, có đoạn thuật lại lời đối thoại giữa Quốc sư Huệ Trung và nhà vua.  Quốc sư rời kinh đô, lên núi Bạch Nhai luyện tâm. Nhà vua thương nhớ, thỉnh thoảng lại cho người lên rước về triều để được vấn an. Có lần vua hỏi:

            - Bốn mươi năm trên núi, ngài chứng được những quả vị gì?

            Quốc sư chỉ tay lên trời, hỏi vua:

            -Mây trắng trên kia, ai đóng đinh mà dính trên không trung vậy?

            Vua trả lời:

            - Không ai đóng đinh cả. Nó tự vậy thôi!

            Quốc sư bèn nói:

            -Ta cũng thế. Ta không có qủa vị gì để chứng. Ta là người bình thường, là một ông tăng trên xó núi thảnh thơi. Ta không bị buộc vào gì cả.

 

            Tuy dẫn chứng này phải dùng ngôn từ, nhưng nói, mà thực như không nói, vì Quốc sư nào có thường kế cận bên vua. Vậy mà điều gì khiến nhà vua luôn tưởng nhớ đến ngài? Có phải là Pháp thân ngài vẫn tỏa sáng đến tấm lòng thành khẩn của nhà vua?

            Thế nên, pháp thân tuy vô hình nhưng vẫn thể hiện ở muôn hình vạn trạng. Tôn tượng Phật Thích Ca bằng đá trắng, bên hè phố Oakland, nay đã được cư dân nơi đó thiết kế một Am nhỏ, với kiến trúc như một ngôi chùa tí hon bằng gỗ. Và tôn tượng được an vị bên trong, như một biểu tượng linh động và rõ nét nhất về sự cảm hóa nhiệm mầu, qua lòng từ bi mẫn ái của Chư Phật đối với chúng sanh. 

            Nay, không chỉ cư dân trong vùng thay nhau chăm sóc, không chỉ những Phật tử mọi sắc dân về tụng kinh, lễ bái trước Am, mà du khách thập phương nghe tin, cũng ghé thăm, chắp tay tỏ lòng kính ngưỡng.

 

            Giữa khu phố người người an lạc, hạnh phúc đó, tượng Phật tĩnh tọa trong Am, vẫn chỉ lặng thinh mà tỏa sáng.            

                    

Huệ Trân

(Tào-Khê tịnh thất, đêm trăng tháng mười)

(*) Làng Mai dịch.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8623)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
24/09/2010(Xem: 7370)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 5867)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 10202)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 11575)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 9792)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 10706)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 9253)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 5556)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 6411)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567