Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc ‘Thiền Tập’ Của Cư Sĩ Nguyên Giác

24/05/201406:41(Xem: 15488)
Đọc ‘Thiền Tập’ Của Cư Sĩ Nguyên Giác

ducphatthichca

Đọc ‘Thiền Tập’ Của Cư Sĩ Nguyên Giác:
Bản Đồ Tu Thiền Hữu Ích Cho Mọi Căn Cơ
Huỳnh Kim Quang



Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đề mà giác ngộ thành Phật. Cho nên, mục đích tối hậu của thiền Phật Giáo là thành Phật, là giác ngộ chân tánh. Vì vậy, Thiền Tông chỉ nói đến “kiến tánh thành Phật,” không nói gì khác.

Nhưng không phải ai cũng có đủ căn cơ để tu thiền mà kiến tánh thành Phật ngay trong sát na hiện tiền, hay chí nữa cũng là trong đời này. Cho nên, trong Thiền Tông cũng có đốn ngộ và tiệm tu, cũng có Nam Năng và Bắc Tú. Thậm chí thâm tín Phật Pháp như Vua Lương Võ Đế thì có mấy ai, vậy mà trước câu nói trực chỉ của Tổ Sư Đạt Ma “Xây chùa, tạo tượng đều không có công đức,” cũng không thể tự mình mở lối lên Thiếu Thất! Vì lẽ đó, để độ người hữu duyên theo căn cơ sai biệt, thiền cũng khai mở nhiều cửa phương tiện từ sơ cơ tiệm thứ điều tức, điều thân, điều tâm, đến hốt nhiên đại ngộ ngay nơi chiếc lá rơi.

Ngày nay thiền trở thành liệu pháp trị bệnh thân tâm một cách hữu hiệu được phổ biến khắp mọi nơi trên thế giới, từ bệnh viện y khoa, công ty thương mại đến trường học và quân đội. Có thể nói chưa bao giờ thiền được đại chúng hóa như bây giờ. Tuy nhiên, theo quy luật xã hội, cái gì được đại chúng hóa thì không tránh khỏi trở thành sản phẩm xã hội, mà đã là sản phẩm xã hội thì khó giữ được phẩm chất tinh ròng và nguyên vị của nó. Đó chính là trong cái được có cái mất! May thay, còn có những người ngày đêm âm thầm gìn giữ tinh yếu của thiền như các thiền sư chân truyền trong các thiền viện thâm nghiêm, hay như cuốn “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác.

Tác phẩm “Thiền Tập” được Cư Sĩ Nguyên Giác biên dịch cách nay vài năm và lâu nay được đăng trong trang nhà của Thư Viện Hoa Sen tại địa chỉ: http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-15163_5-50_6-1_17-81_14-2_15-2_10-426_12-1/thien-tap.html ; hoặc trên trang nhà Quảng Đức ở địa chỉ: http://quangduc.com/a29746/thien-tap-cu-si-nguyen-giac-bien-dich và nhiều trang mạng Phật Giáo khác.

Một trong những đặc điểm của cuốn “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác là tác phẩm này chứa đựng một bản đồ toàn diện về pháp môn thiền từ bước đầu căn bản chỉ dạy cách ngồi thiền, cách điều tức, điều thân và điều tâm, đến những phương thức thiền tập diệu dụng cao siêu của cả ba truyền thống Phật Giáo: Tây Tạng, Nam Truyền, và Bắc Truyền. Đó là đặc điểm bởi vì có rất ít hay đúng hơn rất hiếm sách viết về tu thiền bằng tiếng Việt mà có đầy đủ pháp môn từ sơ cơ đến thượng thừa như vậy.

Điểm đặc biệt khác nữa là người biên dịch “Thiền Tập” là Cư Sĩ Nguyên Giác không phải chỉ là một học giả trên lý thuyết mà chính là một hành giả thiền trên bốn mươi năm và được truyền thụ trực tiếp từ những bậc thiền sư đạo cao đức trọng trong chốn thiền môn như Thiền Sư Tịch Chiếu, Viện Chủ Chùa Tây Tạng ở Bình Dương, Việt Nam. Cư Sĩ Nguyên Giác cũng là tác giả của cuốn “Vài Chú Giải Về Thiền Đốn Ngộ,” được xuất bản trên hai mươi năm trước tại Hoa Kỳ, và hàng chục tác phẩm nghiên cứu và dịch thuật khác về Phật Giáo.

Trong “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác đề cập đến ba truyền thống thiền của Phật Giáo Tây Tạng, Nam Tông và Bắc Tông, với những pháp môn tinh yếu và phổ truyền nhất của mỗi hệ thống. Trong đó, với Phật Giáo Tây Tạng thì có pháp môn Đại Thủ Ấn, Đại Toàn Thiện; với Phật Giáo Nam Truyền thì có pháp môn Thiền Minh Sát; với Phật Giáo Bắc Truyền thì có pháp môn Thiền Mặc Chiếu, Thiền Công Án.

Đôi khi người mới tu thiền nghĩ rằng phép thở là bước đầu vào thiền nên không có công dụng mầu nhiệm gì lắm. Nhưng không, trong “Thiền Tập” cho chúng ta thấy về diệu dụng bất khả tư nghì của phép thở như sau:

“Mặc dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó có thể rất là mãnh liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp tu này là chúng ta có thể đạt được an tĩnh nội tâm và sự an lạc chỉ bằng cách kiểm soát tâm, mà không dựa vào bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng niệm lắng xuống, và tâm chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu thẳm và sự an lạc tự nhiên khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc và sự sung mãn giúp chúng ta đối phó với sự bận rộn và khó khăn của đời sống thường nhật.”

Khai thị về pháp đốn ngộ, “Thiền Tập” trích dẫn lời dạy của Thiền Sư Hám Sơn chỉ thẳng cội rễ của mọi pháp chỉ là “ảo giác và vô tự tánh,” tất cả đều “phóng hiện từ chân tâm,” như sau:

“Để thiền tập, ngươi trước tiên phải dẹp bỏ hết mọi kiến thức và hiểu biết, và chỉ nhất tâm đưa tòan lực của ngươi đặt lên một niệm. Tin vững chắc vào [chân] tâm của ngươi rằng, nguyên thủy nó thanh tịnh và sáng rõ, không một chút trì trệ nào hết – nó thì sáng và hoàn thiện, và bao trùm khắp Pháp giới. Trong tự tánh, thì không hề có thân, không hề có tâm, không hề có thế giới, mà cũng không hề có vọng niệm nào, không hề có bất kỳ thọ tưởng nào. Ngay trong khoảnh khắc này, chính ngay một niệm này tự nó đã là vô sinh. Tất cả mọi pháp đang hiển lộ trước ngươi bây giờ thực ra là ảo giác và vô tự tánh – tất cả vạn pháp đó đều là phản chiếu phóng hiện từ chân tâm của ngươi.”

Phần cuối của “Thiền Tập” Cư Sĩ Nguyên Giác giới thiệu và trích dịch bài Kinh “Bahiya Sutta” trong Tiểu Bộ Kinh kể chuyện Đức Phật dạy bài pháp khẩn cấp cho Người Áo Vỏ Cây chứng A La Hán ngay tức thì khi nghe Phật dạy và đã viên tịch không lâu sau đó. Bài pháp này cho thấy người nghe pháp Phật có thể đốn ngộ thánh quả tức thì ngay trong lời dạy của vị đạo sư. Xin trích lại đoạn Kinh mà Đức Phật dạy cho ngài Bahiya để độc giả tường lãm:

“Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.

“Khi với ông, này Bahiya, trong cái được thấy chỉ là cái được thấy… [nhẫn tới]… trong cái được thức tri chỉ là cái được thức tri, thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘với đó.’ Này Bahiya, khi ông không là ‘với đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không là ‘trong đó.’ Này Bahiya, khi ông không ‘trong đó,’ thì rồi Bahiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là đoạn tận khổ đau.”

Cư Sĩ Nguyên Giác viết trong “Thiền Tập” về sự chứng đắc qủa vị A La Hán tức thì của Người Áo Vỏ Cây:

“Nhưng, làm cách nào ngài Bahiya -- một người đời thường, chưa từng quy y hay thọ giới gì cả… mà lúc tìm nghe pháp thì vẫn còn mang phong thái ngọai đạo, với kiểu lấy vỏ cây làm áo, và được gọi tên bằng Bahiya Áo Vỏ Cây -- sau khi nghe bài pháp yếu vài câu lại có thể “hốt nhiên đốn ngộ” và xóa sạch ác nghiệp muôn đời ngàn kiếp để vừa khi bị bò húc chết là nhập Niết Bàn vô dư ngay? Có nghĩa là, ngay khi tâm vừa đốn nhập được, thì vô lượng nghiệp tội sẽ không còn ràng buộc được nữa? Như vậy, khỏang cách giữa một người đời thường cho tới ngôi vị Thánh Quả A La Hán thực ra chỉ cách nhau vài sát na tâm? Thực ra, ngài Bahiya đã tu từ vô lượng kiếp rồi, đã là một tỳ kheo từ thời Phật Ca Diếp. Không có gì là tự nhiên cả, và ngài Bahiya sau này được Đức Phật nói là trường hợp chứng đạo mau nhất, xuất sắc nhất.”

Có được khoảnh khắc “hốt nhiên đốn ngộ” thì phải tu từ vô lượng kiếp cho nên, thiền là phải tập, phải tu tinh tấn mỗi sát na, mỗi giờ, mỗi ngày trong đời sống. “Thiền Tập” là cuốn sách rất bổ ích cho mọi người, mọi căn cơ. Xin hãy vào các trang mạng trên để đọc “Thiền Tập” của Cư Sĩ Nguyên Giác và học cách thực tập thiền.

Xin cảm niệm công đức của tác giả và trân trọng giới thiệu đến bạn đọc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2021(Xem: 4725)
Lời tựa Những lời Phật dạy phần lớn mang tính phương tiện. Nếu ta chấp chặt từng chữ, từng lời sẽ khó hiểu được hết ý nghĩa thâm sâu bên trong. Chúng ta - những người học Phật ngày nay - rất cần nhận biết đâu là phương tiện, đâu là chân lý trong những lời Phật dạy để không rơi vào cực đoan và thiên kiến. Ngoài ra, người học Phật cũng cần chú tâm vào thực hành để tự mình thực chứng, để tự tìm ra cách đi phù hợp cho riêng mình.
26/05/2021(Xem: 5035)
Phật Đà sau khi thành Chánh Đẳng Chánh Giác nơi cội Bồ Đề, trong thời gian hai mươi mốt ngày, chỉ riêng mình thọ dụng diệu lạc giải thoát, tự riêng cảm niệm lý pháp tịch tịnh vi diệu thậm thâm khó thấy, không phải cảnh giới của tìm cầu, chỉ có bậc trí mới chứng ngộ được; chúng sanh thì bị nhiễm trước thâm sâu ngã kiến, ái lạc phiền não nặng nề, mặc dù họ được nghe Phật Pháp, e rằng cũng không thể rõ thấu, chỉ uổng công vô ích, chi bằng im lặng tịnh trụ tốt hơn. Sau đó Đại Phạm Thiên Vương ân cần cầu thỉnh Phật thuyết pháp, Thế Tôn mới đến Lộc Dã Uyển ngoài thành Ba La Nại Tư, vì năm ông thị giả lúc trước bỏ Phật mà vào trong đây tu khổ hạnh gồm có: A Nhã Kiều Trần Như, Át Bệ, Bạt Đề, Thập Lực Ca Diếp, Ma Nam Câu Lợi, giảng pháp môn Tứ Đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Năm vị sau khi nghe pháp thấu hiểu ý nghĩa các lậu đều dứt, chứng thành bậc A La Hán, đây là Tam Bảo đầu tiên mới thiết lập trong thế gian: Đại Thánh Phật Đà là Phật Bảo, Pháp Luân Tứ Đế là Pháp Bảo, Năm A La Hán là Tăng Bảo.
24/05/2021(Xem: 4527)
Đại thừa lấy việc chăn trâu dụ cho việc điều tâm, luyện tâm. Cái tâm đó, nguyên lai thuần hậu, nhưng đã bị đánh lạc mất, để nó chạy rông, buông lung theo sở thích không biết gì đến những hiểm nguy rình rập, cho nên phải tìm lại, và chế ngự cho thuần tính. Cái tâm vọng động xấu xa lần hồi được gạn lọc khỏi các cấu nhiễm trần gian sẽ sáng dần lên và từ chỗ vô minh sẽ đạt tới cảnh giới vòng tròn viên giác. Đó là tượng trưng cho phép tu “tiệm”. Theo phép tu tiệm thì phải tốn rất nhiều công phu mới tiến đến được từng nấc thang giác ngộ. Nhờ công phu, cái vọng tâm lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng lần lên, cũng như nhờ được chăn dắt mà con trâu hoang đàng lâu ngày trở nên thuần thục dần dần và lớp da đen dơ dáy trắng lần ra.
24/05/2021(Xem: 3751)
Cơn đại dịch quét qua địa cầu gây điêu đứng và làm xáo trộn cả đời sống của nhân loại. Nó tước đi những sinh mệnh, làm đảo lộn nếp sống của từng cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia và quốc tế. Nó không phân biệt, nể trọng hay nhường nhịn ai; không kỳ thị trí thức hay bình dân, giàu hay nghèo, già hay trẻ, nam hay nữ, khỏe mạnh hay yếu đuối. Nó ly cách từng cá nhân, chia lìa những gia đình, khoanh vùng từng xã hội; và như lưỡi hái khổng lồ của tử thần, nó phạt ngang, san bằng tất cả những gì nằm trên lối đi thần tốc của nó.
24/05/2021(Xem: 7585)
Ca khúc phổ nhạc “Đóa Hoa Dâng Đời... Của Ns Phật Giáo Hằng Vang từ bài thơ có tựa là “ Đóa Hoa Ngàn Đời... Của Huyền Lan đăng tuần báo Giác Ngộ đặc biệt Phật Đản số 110 ra ngày 09/05/1998. Sau đó vào năm 2003. Cư Sỹ Tống Hồ Cầm – Phó Tổng Biên Tập Báo Giác Ngộ - tức nhà thơ Tống Anh Nghị - Chủ Nhiệm CLB thơ ca Báo Giác Ngộ, hợp tuyển thơ báo Giác Ngộ nhiều tác giả có tên gọi “Sắc Hương Hoa Bút... Được tuyển chọn vào tập thơ nhiều tác giả nầy...
24/05/2021(Xem: 4749)
Ni sư Thích Nữ Giới Hương có lẽ là vị trụ trì viết nhiều nhất ở hải ngoại. Đó là theo chỗ tôi biết, trong cương vị một nhà báo nhiều thập niên có liên hệ tới nhà chùa và công việc xuất bản. Viết là một nỗ lực gian nan, vì phải đọc nhiều, suy nghĩ nhiều, phân tích nhiều, cân nhắc kỹ rồi mới đưa chữ lên mặt giấy được. Đặc biệt, Ni sư Giới Hương cũng là vị trụ trì viết bằng tiếng Anh nhiều nhất. Tôi vẫn thường thắc mắc, làm thế nào Ni sư có đủ thời giờ để gánh vác Phật sự được đa dạng như thế. Nghĩ như thế, vì tự thấy bản thân mình, nghiệm ra, không có đủ sức đọc và viết nhiều như Ni sư.
18/05/2021(Xem: 6191)
Phật sử ghi lại rằng, vào canh Ba đêm thành đạo, đức Phật đã tìm ra câu giải đáp làm sao thoát khỏi cảnh “Sinh, Già, Bệnh, Chết”, tức thoát khỏi vòng “luân hồi sinh tử”. Câu trả lời là phải đoạn diệt tất cả “lậu hoặc”. Lậu hoặc chính là những dính mắc phiền não, xấu xa, ác độc, tham, sân, si… khiến tâm con người bị ô nhiễm từ đời này sang đời khác, và đời này con người ta vẫn tiếp tục huân tập lậu hoặc, tạo thành nghiệp. “Lậu hoặc” hay “nghiệp” là nguyên tố nhận chìm con người trong luân hồi sanh tử, là nguyên nhân của khổ đau. Muốn chấm dứt khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử thì phải đoạn diệt tất cả các lậu hoặc, không có con đường nào khác!
18/05/2021(Xem: 5337)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa. Hy vọng tránh được một cuộc tắm máu, ngài đã đi lưu vong và hơn 150,000 Tây Tạng đã đi theo ngài. Bất hạnh thay, hành động này đã không ngăn được sự tắm máu. Một số báo cáo nói rằng khoảng một triệu người Tây Tạng đã chết trong năm đó như một kết quả trực tiếp của việc Tàu Cộng xâm chiếm Tây Tạng.
16/05/2021(Xem: 12178)
Nhận xét rằng, Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh gấp của lịch sử nhân loại. Đại dịch Covid-19 đã khép kín mỗi cá nhân trong một không gian chật hẹp, cách ly xã hội, cô lập cá nhân, cách ly cả những người thân yêu. Nó đã tạo ra những khủng hoảng tâm lý trầm trọng trong nhiều thành phần xã hội. Một số đông bị quẫn bức, không thể tự kềm chế, bỗng chốc trở thành con người bạo lực, gieo kinh hoàng cho xã hội. Một số khác, có lẽ là số ít, mà phần lớn trong đó là thanh thiếu niên, khởi đầu cũng chất đầy oán hận trong lòng, nhưng rồi trước ngưỡng sinh tử sự đại, tự mình phấn đấu tự kềm chế, cuối cùng đã khám phá chính mình, trong trình độ nào đó, với những giá trị nhân sinh chỉ có thể tìm thấy trong những cơn tư duy thầm lặng. Giá trị nhân sinh không thể tìm thấy bằng những cao trào kích động của tuổi trẻ. Thế hệ ấy sẽ làm thay đổi hướng đi của lịch sử Đông Tây qua hai nghìn năm kỷ nguyên văn minh Cơ-đốc, khi mà tín đồ có thể liên hệ trực tiếp với đấng Chí Tôn của mình qua mạng truyền
15/05/2021(Xem: 5369)
Phần này bàn về niên hiệu Long Thái và chúa Khánh ở Cao Bằng vào thời LM de Rhodes đến truyền đạo. Đây là lần đầu tiên các danh từ như vậy được dùng trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh (chữ quốc ngữ). Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "Chúa Thao cổ truyện" và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]