Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một mục sư tương lai thành Phật tử gương mẫu

21/05/201418:43(Xem: 8791)
Một mục sư tương lai thành Phật tử gương mẫu

Muc_Su_tuonglai_tro_thanh_Phattu (1)

Tôi gặp anh trong lần đến thăm một người bạn ngày cuối tuần. Trông anh phúc hậu, nói chuyện có duyên với dọng nói ấm áp, dễ nghe. Mỗi người chúng tôi kể những câu chuyện của mình, trao đổi về phương pháp và kinh nghiệm tu tập. Anh cũng vậy. Tôi giật mình khi anh nói về gia đình anh. Hóa ra trước mặt tôi là người đàn ông của một gia đình công giáo nòi.

Anh tên là Tốt, Nguyễn Văn Tốt, hiện đang định cư tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Gia đình anh ngày trước sống xã ở Nhị Bình, huyện Hóc Môn. Anh kể về vùng đất mà ngay gần đó là nhà thờ Lái Thiêu. Rằng cha mẹ anh là dân công giáo. Ông bà anh cũng là công giáo chính gốc.

Tôi bất ngờ khi nghe anh kể về thời gian khi anh học trong trường dòng. Rằng nếu mọi sự suôn sẻ anh sẽ thành mục sư. Ấy vậy mà có sự chuyển biến thời thế và anh không tiếp tục học trường dòng nữa.

Bước ngoặt trong tâm linh xảy ra năm 23 tuổi. Đêm nọ, anh mơ thấy Quán Thế Âm Bồ Tát. Chuyện rất lạ bởi anh nhìn thấy Ngài rất rõ, trong khi anh và gia đình không hề có ai theo đạo Phật. Cá nhân anh cũng không biết gì, không có khái niệm gì về Đạo Phật và các vị Phật và Bồ tát. Cũng trong khi mơ anh nhìn thấy trên sân khấu có dòng chữ “tu tâm, dưỡng tánh, cúng dường tam bảo”. Ấn tượng mạnh đến mức câu nói ấy anh nhớ mãi. Nhớ đến mãi sau này, đến tận ngày nay.

Muc_Su_tuonglai_tro_thanh_Phattu (4)Muc_Su_tuonglai_tro_thanh_Phattu (3)

 Mấy hôm sau anh tình cờ đi qua một cửa hàng tạp hóa. Tự nhiên anh nhìn thấy bức ảnh ngài Quán Thế Âm Bồ Tát giống hệt hình ảnh mà anh từng năm mơ bữa trước. Anh giật mình và hỏi chủ cửa hàng. Người chủ cửa hàng cho biết không biết bức ảnh đó của ai và nếu như muốn anh có thể lấy. Anh cầm bức ảnh về và không thể tin nổi sự linh nghiệm của một giấc mơ. Thế là anh bắt đầu thờ Ngài.

Một thời gian sau có người tặng anh cuốn kinh A Di Đà. Thế là anh bắt đầu tụng. Gọi là tụng chứ anh nói rằng anh chỉ đọc thôi. Không chuông, không mõ. Cứ thế hàng ngày anh tụng đọc.

Lại nói về người vợ. Vợ anh vốn là người không theo đạo nào cả. Tuy nhiên khi lấy chồng, theo quy định của công giáo, bắt buộc phải học giáo lý và trở thành người có đạo. Điều lạ rằng, từ ngày anh “tình cờ” trở thành Phật tử, tụng kinh, thờ Phật vợ anh cũng theo luôn. Sau này sinh con, nuôi con, con anh cũng theo đạo Phật.

Tôi hỏi anh về lịch trình công phu hàng ngày anh nói rằng các buổi sáng anh tụng kinh Lăng nghiêm tối tụng kinh A Di Đà, hay phẩm Phổ môn hoặc 1 kinh khác. Riêng các ngày mồng một và rằm anh luôn lễ Phật sám hối. Anh cũng nói rằng khi tụng kinh anh chỉ đi chuông chứ không gõ mõ, tránh sự dị nghị của hàng xóm và người thân.

Anh cũng kể rằng vợ anh rất tín tâm. Chị là người đóng vai chính trong việc đi chợ mua đồ dâng và cúng Phật.

Tôi hỏi ý kiến của anh về căn nguyên tại sao lại chuyển từ công giáo sang đạo Phật, anh cười bảo rằng chắc chắn do chủng tử từ kiếp trước. Anh nghĩ rằng kiếp trước anh đã là Phật tử nên bây giờ khi gặp được đạo Phật liền quay về ngay và rất hài lòng về việc này. Anh rất thích đạo Phật ở chỗ cửa chùa luôn rộng mở, không có quy định bắt buộc ngày giờ tụng kinh, đi lễ. Tất cả là tùy duyên.

Câu nói của anh làm tôi giật mình và buồn cười đó là “theo đạo Phật tốn kém hơn”. Rằng nếu ở nhà thờ Phật thường có dâng bông, dâng hương và trái cây hay bánh trái, trong khi bên công giáo, không cần mua trái cây hay bất cứ thứ gì để dâng lên cúng lễ. Bên công giao đi nhà thờ cũng không dâng bông không dâng trái cây hay bánh kẹo trong khi vào chùa hầu như ai cũng dâng đò cúng, ít nhất là mồng một và ngày rằm. 

Muc_Su_tuonglai_tro_thanh_Phattu (2)

Tôi nghe qua các câu chuyện anh kể và biết rằng anh thích nhất luật nhân quả. Đây là vấn đề rốt ráo và đã ảnh hưởng nhiều nhất đến cách sống, sinh hoạt và làm việc của anh. Anh cho rằng nếu ai cũng biết đến điều này thì xã hội sẽ rất tốt đẹp. Và anh rất thích tuyên truyền và nói về vấn đề nhân quả với bất cứ ai và ở bất cứ đâu. Anh cũng có rất nhiều câu chuyện do chính anh biết hay trải nghiệm.

Tôi thích nhất câu nói của anh rằng, chúng ta cùng là con một nhà tức là đang ăn cùng nồi cháo. Nếu nồi cháu ngon, bổ thì ai cũng được hưởng. Nếu nồi cháo có thuốc độc thì ai cũng chết, kể cả người liếm thìa hay vét nồi. Anh nói rằng chỉ có một con đường duy nhất là sống tốt, sống thiện, phải tu tâm dưỡng tánh như đúng câu nói đã hiện lên sân khấu nơi anh đi diễn trong giấc mơ năm xưa.

Khi tôi hỏi về 2 tôn giáo: công giáo và Phật giáo anh nói rằng, mặc dù bây giờ anh là Phật tử và không còn là người của công giáo nhưng 2 tôn giáo này như bên nội và bên ngoại của 1 gia đình, rằng gia đình cần phải đoàn kết, rằng tuyệt đối không được nói xấu nhau. Chỉ có như vậy mới có được một gia đình hạnh phúc.

Người đàn ông mà tôi may mắn được gặp tên là Tốt thực sự là tốt bụng. Tôi cảm nhận rất rxo qua các câu chuyện của đời anh và những việc anh đang làm. Tôi giật mình khi biết anh sinh năm 1962, tức đã hơn 50 tuổi. Ngắm lại tôi mới thấy, quả thật anh trẻ hơn hẳn so với tuổi. Trước đây anh Tốt là là diễn viên cải lương còn bây giờ là 1 đạo diễn. À ra là vậy.

Rời buổi gặp gỡ, trong đầu tôi vẫn nhớ mãi về anh. Tôi mong gặp lại anh trong thời gian tới. Nhất định có ngày tôi sẽ mời anh làm khách mời trong các chương trình Phật giáo mà tôi đang tâm huyết.

Tôi vui lắm, anh có biết không, anh Tốt ơi.


TS Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty sách Thái Hà 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5091)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6965)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]