Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhớ mãi khóa tu “Hoa ưu đàm” tại cố đô Huế

16/05/201418:40(Xem: 9135)
Nhớ mãi khóa tu “Hoa ưu đàm” tại cố đô Huế

Hoa uu dam Hue

Hoa uu dam Hue va phat tu treHoa uu dam Hue phat tu nhíHoa uu dam Hue phat tu lang ngheHoa uu dam Hue dang hoa cung duongHoa uu dam Hue 1Giao luu voi phat tu HueGiao luu voi Phat tu Hue 2Tôi nhận được lời mời từ quý thầy huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế làm khách mời cho khóa tu “Hoa ưu đàm” thật bất ngờ. Nói thật rằng nếu mời tôi nói về quản trị doanh nghiệp hay kỹ năng lãnh đạo thì tôi nhận lời ngay chứ đây là khóa tu có đến hai ngàn Phật tử tham dự. Mà lại ở Huế, cái nôi Phật giáo của đất nước. Cuối cùng Đại đức Thích Tâm Nguyên cũng đã thuyết phục được tôi. Thế là tôi có chuyến bay về lại cố đô Huế nhân mùa Phật Đản.

Khóa tu 2 ngày diễn ra tại chùa Ngọc Anh và chùa Giác Thế, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bạn sẽ hỏi tại sao lại là tại 2 chùa. Đơn giản bởi một ngôi chùa thì không thể đủ chỗ cho khóa tu bao gồm cả ăn trưa cho hai ngàn Phật tử. May mà hai ngôi chùa này nằm ngay cạnh nhau nên khá thuận tiện cho Phật sự.

Bất ngờ đầu tiên là tôi được đón quá long trọng tại sân bay. Nói thật rằng ngoài vài chuyến đi nước ngoài theo các chương trình lớn của các doanh nhân, tôi chưa bao giờ được đón chào long trọng đến thế. Có đến tận 2 xe hơi ra sân bay cùng các quý thầy, quý Phật tử và hoa tươi chào mừng… một mình tôi. Tôi lặng người đi vì xúc động. Tôi vừa bất ngờ vừa cảm thấy tổn phước quá. Mình đã làm được gì đâu, có là ai đâu mà quý thầy và ban tổ chức lại đón tiếp linh đình thế.

Khi về đến chùa tôi thấy các bác Phật tử mang lọng ra đón. Trời đất! Đến lúc này thì tôi thật sự thấy ngại, ngại quá chừng. Tôi có nói với các bác rằng không cần như vậy và tôi cũng không muốn như thế nhưng các bác nói rằng đây là phân công của ban tổ chức, và rằng ở Huế luôn kính trọng và đón khách mời như thế. Tôi bước chậm và thở nhẹ trong sự ngại ngùng. Thôi thì thêm 1 trải nghiệm về phong tục cố đô và cách tiếp khách của Huế.

Tôi có may mắn được nói chuyện với 2 quý thầy trụ trì 2 ngôi chùa Ngọc Anh và Giác Thế là thầy Thường Nhật và thầy Phước Hòa. Mặc dù trời rất nóng và các thầy phải chạy đôn chạy đáo, rất vất cả lo cho khóa tu lớn nhưng tôi cảm nhận rất rõ niềm vui của các thầy. Các thầy cười rất tươi, rất hoan hỷ. Những nụ cười hiền hậu, bao dung.

Khóa tu có sự quang lâm chứng minh tham dự của rất nhiều Hòa thượng, Thượng tọa. Tôi ngồi theo dõi hơi thở và nghĩ về hoa ưu đàm như tên của chính khóa tu. Tôi nghĩ đến mùa Phật đản và VESAK thiêng liêng. Tôi tưởng nhớ tới sự xuất hiện quý giá của đức Phật trên thế gian này, rằng mình quá may mắn được là Phật tử, được tu tập theo con đường mà Ngài đã tìm ra. Đức Phật xuất hiện để chúng ta có cơ hội nương vào giáo pháp của Ngài trên bước đường hoàn thiện nhân cách, đạo đức của chính mình nhằm đạt đến an lạc và giác ngộ, giải thoát.

Trời Huế mùa này nắng quá. Cái nắng gay gắt như trùm lên mấy ngàn Phật tử đang có mặt ở đây. Tuy nhiên tất cả đang một lòng cùng nhau như những người con về thăm cha để cùng nhau tu tập. Hình như ai cũng cố gắng để tận dụng quãng thời gian quý giá và hiếm hoi này để học hỏi, để thay đổi chính mình, để được tiến gần với Phật hơn, mong sao tới đây tâm mình và tâm Phật hòa làm một.

Quan sát tôi thấy rất rõ rằng ai nấy đều đang rất cố gắng và nỗ lực tận dụng năng lượng tập thể của một tăng đoàn hai ngàn người con Phật để điểu chỉnh thân, khẩu, ý, giải trừ nghiệp chướng, trau dồi giới đức, tu tập viên mật dưới ánh hào quang gia hộ của Tam Bảo.

Tôi được chứng kiến công phu niệm Phật của quý Phật tử cố đô. Giới trẻ rất đông, tuy nhiên các em khá trật tự và chấp hành nghiêm túc các quy định của ban tổ chức. Tôi ngồi và ngắm các Phật tử Huế ăn cơm trong chánh niệm. Thật là đẹp và đáng yêu. Ngay những bước chân của mấy ngàn người con Phật trong thiền hành, trong lúc nhận cơm trưa, khi rời bữa ăn. Thân thương lắm. An lạc lắm. Tôi như thấy trước mặt mình những người anh em ruột thịt thân thương của chính mình.

Phần chia sẻ của tôi diễn ra khá tốt. Tôi đơn giản kể về cuộc sống và công việc của mình về những kinh nghiệm tu tập của một doanh nhân, của một người con miền bắc. Ít nhất để các bạn đạo miền trung có thêm một góc nhìn, một sự sẻ chia. Trước mặt và xung quanh tôi là các đạo hữu Phật tử, huynh trưởng, đoàn sinh gia đình Phật tử huyện Phú Vang và các sinh viên Phật tử thành phố Huế. Tôi cũng thấy có khá nhiều học sinh phổ thông tham dự nữa. Đông lắm. Ngồi khắp nơi. Phần lớn ngồi xa và theo dõi qua các màn hình ti vi.

Tôi thấy các bạn trẻ rất chăm chú lắng nghe. Những tràng vỗ tay động viên tôi làm tôi thấy mình càng có trách nhiệm hơn trong việc sẻ chia và đồng hành với các Phật tử nơi đây. Thật không dễ để có một môi trường sinh hoạt Phật pháp tuyệt vời như thế này. Huế là nơi mà Phật giáo phát triển nhất Việt Nam. Có mấy tỉnh thành trên cả nước có thể tổ chức được khóa tu hai ngày cho mấy ngàn Phật tử.

Tôi đặc biệt ấn tượng với mô hình gia đình Phật tử ở Huế. Các em ăn mặc đồng phục chỉnh tề, cách ứng xử với nhau rất văn minh và có trí tuệ. Tôi chợt nghĩ, tại sao mô hình này chưa phát triển ở miền bắc. Nên chăng, mình cùng với những người con Phật tâm huyết khác cần sớm mang về Hà Nội để phát triển. Phật pháp vốn rất nhiệm mầu trong cuộc sống này mà. Cái gì làm mà chẳng được nếu như chúng ta thật sự muốn, nếu như chúng ta phát nguyện.

Bữa cơm tối chúng tôi dùng với thầy Đàm Tịnh. Tôi lại có cơ duyên thăm ngôi chùa Huế mang tên An Lưu. Và rồi chúng tôi được thầy Đàm Tịnh trực tiếp viết tặng một bức thư pháp rất đẹp, một món quà ý nghĩa để mang theo về Hà Nội.

Trước khi rời cố đô, chúng tôi đến thăm chùa Pháp Hải nằm trên cồn đất giữa sông Hương. Thầy Nhật Tuệ và các quý thầy đón tiếp chúng tôi rất ân cần và ấm tình người. Trong suốt buổi nói chuyện hầu như tất cả đều nói về cách hoằng pháp, về đạo Phật với tuổi trẻ, về văn hóa Phật giáo thời nay.

Những ngôi chùa Huế nhỏ, cổ kính, lâu đời vẫn như đang hiện ra trong đầu tôi lúc này. Khuôn mặt hiền hậu, dễ thương của mấy ngàn Phật tử Huế như đang bao quanh tôi giờ đây. Giọng nói nhẹ nhàng, đáng yêu vẫn như lứu lô bên tôi không dứt. Tôi mong có ngày nào đó lại đủ duyên quay lại mảnh đất miền trung với cái nôi Phật giáo tuyệt vời này.

Tôi nhớ lắm quãng thời gian quý giá ở Huế. Mùa Phật đản vẫn đang bên tôi, bên bạn. Hoa ưu đàm có nở trong tâm bạn hay chưa? Chỉ biết rằng hai ngàn Phật tử Huế mà tôi có duyên may được gặp thực sự là những bông hoa đẹp đã và đang tiếp sức cho tôi. Vui biết bao.


Thiện Đức Nguyễn Mạnh Hùng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/02/2021(Xem: 10382)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9194)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6495)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8882)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5061)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
17/02/2021(Xem: 5261)
Nội dung tác phẩm dựa trên một bức tranh nổi tiếng có tên là “Thanh minh thượng hà đồ” (nghĩa là “tranh vẽ cảnh bên sông vào tiết Thanh minh”) của nghệ sĩ Trương Trạch Đoan vào thời nhà Tống cách đây hơn 1000 năm. Thiên tài Albert Einstein đã từng nói: “Nghệ thuật thật sự được định hình bởi sự thôi thúc không thể cưỡng lại của người nghệ sĩ sáng tạo”. Và một nghệ sĩ điêu khắc người Trung Quốc – Trịnh Xuân Huy đã chứng minh điều đó qua kiệt tác nghệ thuật của ông trên một thân cây dài hơn 12 mét. Chắc chắn bạn sẽ phải ngạc nhiên về một người có thể sở hữu tài năng tinh xảo đến như vậy!
17/02/2021(Xem: 5692)
Một quán chiếu về những ánh lung linh trên bề mặt một hồ nước gợn sóng lăn tăn bởi làn gió nhẹ. Một con sông khổng lồ của si mê tin tưởng sai lầm tâm-thân là tồn tại cố hữu tuôn chảy vào hồ nước của việc hiểu sai cái "tôi" như tồn tại cố hữu. Hồ nước bị xáo động bởi những làn gió của tư tưởng phiền não chướng ngại ẩn tàng và của những hành vi thiện và bất thiện. Sự quán chiếu ánh trăng lung linh biểu tượng cho cả trình độ thô của vô thường, qua sự chết, và trình độ vi tế của vô thường, qua sự tàn hoại từng thời khắc thống trị chúng sanh. Ánh lung linh của những làn sóng minh họa tính vô thường mà chúng sanh là đối tượng, và quý vị thấy chúng sinh trong cách này. Bằng sự ẩn dụ này, quý vị có thể phát triển tuệ giác vào trong vấn đề chúng sinh bị kéo vào trong khổ đau một cách không cần thiết như thế nào bằng việc điều hướng với tính bản nhiên của chính họ; tuệ giác này, lần lượt, kích hoạt từ ái và bi mẫn.
16/02/2021(Xem: 4559)
Nói về pháp khí, nhạc khí của Phật giáo là nói đến chuông, trống và mõ. Trong ba pháp cụ đó. Tiếng chuông chùa đã gợi nguồn cảm hứng không ít cho những văn, thi sĩ. Hiện nay rất ít tài liệu nói về nguồn gốc của chuông, trống và mõ. Sự kiện trên khiến các học giả nghiên cứu về chuông, trống, mõ gặp trở ngại không nhỏ. Tuy thế dựa vào bài Lịch sử và ý nghĩa của chuông trống Bát nhã do thầy Thích Giác Duyên viết đã đăng trong Thư Viện Hoa Sen, khiến chúng ta biết được người Trung Hoa đã dùng chuông vào đời nhà Chu ( thế kỷ 11 Trước CN – 256 Trước CN ). Riêng việc chuông được đưa vào các chùa chiền ở Việt Nam từ thời nào người viết không biết có tài liệu nào đề cập đến không?
14/02/2021(Xem: 5148)
Pháp Hoa kinh là vua của các kinh vì ở vào thời kỳ thứ 5 trong lịch sử đạo Phật. Lúc bấy giờ là cuối đời thọ mạng của đức Phật nên kinh giảng của người mang toàn bộ tính chất của đạo Phật do người thuyết pháp. Có hai cốt lỏi của kinh Pháp Hoa là Phật tánh và Tri kiến Phật. Phật tánh đã được tóm lược trong bài Nhận biết Phật tánh cùng tác giả. Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy Phật là gì? Biết là tuệ giác người dạy cho chúng ta và thấy là thấy đại từ bi của Phật. Đó là trí tuệ và từ bi là đôi cánh chim đại bàng cất cao bay lên trong tu tập. Chúng ta nghiên cứu trí tuệ của toàn bộ đạo Phật một cách tổng luận để tư duy, về phần từ bi chúng ta đã hiểu qua bài Tôi Học kinh Pháp Hoa đồng tác giả. Trí tuệ đạo Phật có gồm hai phần triết lý đạo Phật và ứng dụng. Tri kiến Phật là nắm hết các điểm chính của đạo Phật theo lịch sử của thời gian. Chúng ta hãy đi sâu về tuệ giác.
14/02/2021(Xem: 4718)
Ta hãy tự thoát ra khỏi thân mình hiện tại mà trở về lúc ta mới được sanh ra. Trong phút giây đặc biệt đó ta là gì? Ta vừa được chào đời, được vỗ mông để bật tiếng khóc là phổi ta hoạt động, mọi chất nhớt trong miệng được lấy ra và không khí vào buồng phổi: ta chào đời. Thân ta lúc đó là do 5 uẩn kết tạo từ hư không, 5 uẩn do duyên mà hội tụ. Cơ cấu của thân thể ta là 7 đại đất nước gió lửa không kiến thức. Cơ thể ta mở ra 6 cổng (căn) để nhập vào từ ngoài là 6 trần để rồi tạo ra 6 thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]