Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Học Từ Bi Với Chính Mình

22/04/201407:11(Xem: 10794)
Học Từ Bi Với Chính Mình

lotus_4
Chúng ta nghe khá nhiều về việc phải tu tập hạnh từ bi nhưng mình cứ loay hoay mãi không biết bắt đầu từ đâu! Có người bảo rằng mình phải học cách sống hy sinh cho người khác thì tâm từ bi mới nở rộ. Nhưng có người lại nói rằng từ bi mà không có trí tuệ là một kẻ dại khờ, ngu dốt. Câu chuyện làm đề tài từ bi thêm hấp dẫn là câu hỏi: 'có nên hay không nên cho tiền người vô gia cư, không nhà, không chốn nương thân (homeless)?' Có người cho rằng không nên vì nếu cho tiền họ, họ có thể mua ít rượu để uống và khi rượu vào thì có thể tâm trí họ sẽ không còn minh mẫn; do đó, họ có thể trở nên bạo động, và có thể, giết người. Nghiệp họ gây ra là do chính mình đã cho họ một số tiền, dù nhỏ, nên tạo duyên cho họ gây tội ác. Thế nên, mình cũng có dính phần trong đó!

Có người lại cho rằng đã từ bi thì không nên tính toán. Mình cứ cho người đi còn họ dùng tài vật vào chuyện gì đó là chuyện của họ. Vì lỡ có người quá đói cần ăn để sống nếu chúng ta phân vân không cho, có thể họ sẽ bị chết vì đói. Như vậy, có phải là mình thiếu đức từ bi hay không? Người khác lại bàn rằng: chắc ăn nhất là mua thức ăn cho họ, nếu họ đói, họ sẽ có cái gì đó bỏ bụng. Nếu họ không đói, họ có thể để dành khi nào đói thì ăn. Như vậy, sẽ tránh được tình trạng tạo duyên xấu cho họ gây tội ác.

Tùy theo ý thích của mỗi người chọn cho mình cách thể hiện lòng từ tốt nhất. Tuy nhiên, bạn có thấy rằng nếu mình rãi tâm từ không hợp thời và không đúng cách sẽ khiến mình thêm phiền não và khó chịu! Bạn thử chiêm nghiệm câu châm ngôn: ‘Một miếng khi đói bằng một gói khi no.’ Hiệu ứng giá trị của một miếng và một gói khác nhau thật là nhiều khi mình biết cho đúng thời và hợp lúc. 

Nhưng nếu suy xét kỷ bạn có thấy rằng sỡ dĩ mình phân vân không biết chọn cách thể hiện lòng từ nào cho đúng là vì mình có bao giờ ứng dụng lòng từ đó với chính mình chưa? Mình đã có bao giờ ‘thử’ từ bi với chính mình? Đương nhiên, khi nói đến lòng từ bi là chúng ta thường liên tưởng đến từ bi đối với người khác. Nhưng Phật thường dạy: ‘Hãy tự thắp đuốc lên mà đi!’ Có nghĩa là, hãy tự độ mình rồi mới độ tha là vậy. Chính nhờ biết từ bi với chính mình mà ta mới hiểu cách nào để rộng mở lòng từ bi đến cho mọi người. Chúng ta sẽ dễ cảm thông khi có người đang tự làm khổ lấy chính bản thân họ.

Nếu bạn còn lấn cấn vì cho rằng từ bi với chính mình thì sẽ sanh ngã ái thì bạn hãy đọc lời Phật đã dạy: “Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến thời không dao động. Ai không dao động thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau.” (phẩm Niết bàn-Tương Ưng Bộ Kinh). Ngã ái là luôn luôn chấp ngã và sinh tâm mê thích ta và cái của ta. Chỉ biết nghĩ đến mình và những gì thuộc về mình. Còn từ bi là ban vui, cứu khổ, một tình thương yêu không bờ bến, không phân biệt ta hay người.

Lòng từ bi không phải chỉ để ứng dụng đối với người khác mà còn bao gồm luôn cả chính bản thân mình nữa. Vì mình cũng là một chúng sinh! Nếu ai cũng thực hành hạnh Từ Bi với chính mình là không để cho những thị phi, đàm tiếu khiến làm cho mình bớt đau, bớt khổ, giúp cho mình giảm bớt bệnh tật, bớt tâm tham, sân, si. Không ai thương mình, bằng chính mình thương mình. Nếu tâm ta cứ tham muốn điều này đến điều khác thì rất dễ dẫn đến sân hận, bực bội và lo lắng. Đó có nghĩa là mình không biết từ bi với mình.

“Đứng về phương diện đối trị cái giận, Từ Quán và Bi Quán là những phương pháp rất thực tế mà rất mầu nhiệm. Kinh có nói tới bảy cái bất lợi của sự giận hờn, của người không chịu buông thả, không chịu chuyển hóa cơn giận của mình. Thứ nhất, người đó trông xấu xí…; điểm bất lợi thứ hai là ta nằm kẹt đau đớn trong cơn giận của ta. He lies in pain. Người giận nằm co quắp trong niềm đau của mình. Niềm đau này là do cái giận làm ra. Thứ ba là không có sự phát triển phong phú. Thân thể cũng như tâm hồn không phát triển và bừng nở được như một đóa hoa. Thứ tư là nghèo đi về tiền tài cũng như về hạnh phúc. Thứ năm là không được tiếng tốt. Thứ sáu là không có nhiều bạn. Và thứ bảy là người đó sẽ tái sanh trong cõi A Tu La, không có hạnh phúc. Đó là bảy điều bất lợi của những người ôm cái giận của mình mà không biết buông bỏ để chuyển hóa.” (Trái Tim Của Bụt - Sư Ông Nhất Hạnh).

Có một câu chuyện có thật xảy ra như sau: Một giáo sư và cũng là nhà nghiên cứu về đề tài hạnh phúc trải qua suốt 20 năm để tìm ra công thức mang đến hạnh phúc. Cuối cùng ông cũng tìm ra và đem tất cả những sở học của mình viết thành nhiều quyển sách nói về hạnh phúc. Chẳng bao lâu, ông trở nên nổi tiếng vì trên thế gian này, ai cũng muốn có hạnh phúc. Thế là ông được mời đi thỉnh giảng khắp nơi trên thế giới về hạnh phúc. Ông bận rộn suốt ngày đêm nào lo soạn bài, nào bay đi khắp nơi để diễn thuyết. Công việc của ông ta tưởng chừng như không bao giờ hết! Một hôm, sau khi diễn thuyết xong có một khán giả muốn biết xem ông đã diễn giảng cho mọi người về hạnh phúc, nhưng chính bản thân ông có cảm nhận được hạnh phúc hay không? Câu hỏi như tiếng sét đánh ngang tai vì suốt bao năm qua ông miệt mài tìm kiếm giải đáp cho câu hỏi hạnh phúc. Nhưng tự bản thân ông chưa bao giờ nghĩ đến là chính mình phải cảm nhận nó!

“Maitri Bhavana Pháp Quán Từ Bi là một trong những pháp thiền thâm nhập sâu sắc nhất… Nó là một nỗ lực đem cái tâm tự-nhiên của bạn trở lại với bạn; nó là một nỗ lực mang cái bản lai diện mục trở lại với bạn; nó là một cái nỗ lực mang bạn tới cái điểm mà bạn mới sinh ra và xã hội chưa khởi sự vo tròn bóp méo bạn, chưa biến đổi bạn thành kỳ quái (the society had not yet corrupted you). Khi một đứa trẻ được sinh ra nó ở trong trạng thái thiền quán Từ bi. Pháp thiền Từ bi chính là cảm-thức mênh mông của thân hữu, từ bi yêu thương, đại bi. Khi đứa trẻ được sinh ra nó không biết thù ghét, nó biết chỉ có từ bi yêu thương. Từ bi yêu thương là tự nó có; sân hận là cái nó sẽ học về sau. Tính tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh (jealousy), tính chiếm-hữu (possessiveness), tính thèm-khát-được-như-người (envy), nó sẽ học về sau. Những cái này chính là những cái xã hội sẽ dạy những đứa trẻ: làm thế nào để tức-giận-cay-đắng-khi-có-đua-tranh, làm thế nào để lòng-chứa-đầy-thù-ghét, làm thế nào để lòng đầy sân hận hoặc bạo lực… Trẻ con đang tín nhiệm nơi con người, nhưng dần dần chúng sẽ có những kinh nghiệm bị lừa dối đưa chúng tới những khó khăn, những vấn đề – những kinh nghiệm trong đó chúng bị chống đối, bị đàn áp, những kinh nghiệm trong đó chúng trở nên kinh sợ. Dần dần chúng sẽ học tất cả các trò lừa đảo của thế giới. Đó là những gì xảy ra, nhiều hoặc ít, cho tất cả mọi người.” *

Lời Phật dạy cách đây 2.600 năm chứa đựng một sự thật căn bản về bản chất của chúng sinh. Đó là, con người là một loại sinh vật xã hội (social animal). Chúng ta không thể sống thiếu sự đoàn kết, thương yêu cho mình và cho người. Cho nên, ai thực hành hạnh từ bi sẽ được những lợi ích như sau: “Này các Tỷ-kheo, với từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự, thời chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một? 1. Ngủ được an lạc; 2- Thức dậy được an lạc; 3- Không thấy các ác mộng; 4- Ðược mọi người thương yêu, quý mến; 5- Ðược các hàng phi nhân thương yêu, quý mến; 6- Ðược chư thiên hộ trì; 7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại được; 8- Tâm dễ dàng an tịnh; 9- Gương mặt sáng sủa; 10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt); 11- Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-la-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên…” (Kinh Tăng Chi, Phẩm Từ - H.T. Minh Châu dịch).


 Có một câu chuyện về một vị Lạt ma, vốn là bạn và cũng là thầy dạy của đức Đạt lai Lạt ma đời thứ 14. Một hôm vị lạt-ma này xin yết kiến đức Đạt-lai Lạt-ma sau khi trốn khỏi nhà tù do chính quyền Trung quốc quản lý bên Tây tạng. Khi tiếp kiến, ngài rươm rướm nước mắt, ngỏ lời xin đức Đạt lai Lạt ma chủ trì cho lễ sám hối của ngài. Kinh ngạc, đức Đạt lai Lạt-ma hỏi ngài đã phạm tội gì! Ngài trả lời đã phạm tội mất từ bi khi bị những người lính Trung quốc hành hạ, đau đớn. Ngài đã có ý tưởng trả thù và muốn làm tổn thương những người hành hạ ngài. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 từng nói: “Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, phải thực hành lòng từ bi. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, phải thực hành lòng từ bi.” Khi mình đánh mất lòng từ bi với chính mình thì cũng như chúng ta đánh mất hạnh phúc của chính mình vậy!

 Khi quay nhìn lại tất cả những gì mình đã làm trong đời, từ việc tốt đến việc xấu. Chúng ta không chỉ hãnh diện với những việc mình đã làm đúng, mà cũng phải mở rộng lòng chấp nhận những điều sai sót, mình hối tiếc, đã lỡ gây ra. Chính vì còn chất người nên mình đã có lúc làm đúng, sai như vậy! Đương nhiên, mình sẽ cố gắng sửa đổi những sai phạm đã gây ra; nhưng không vì đó mà tự hành hạ mình. Mình phải học cách biết tha thứ và từ bi với chính mình vì, nếu không, mình đang không chấp nhận con người thật của mình, một con người có lúc đúng và có lúc sai, như tất cả mọi con người khác! Khi mình chối bỏ tâm từ bi với chính bản thân mình, thì thử hỏi, làm sao bạn có thể mở lòng từ bi với người khác?

Giáo sư Kristin Neff của Đại học Texas là người tiên phong xét nghiệm lòng từ bi với bản thân như một công cụ để thúc đẩy sự chữa lành về mặt tâm lý, hạnh phúc và những mối quan hệ tốt đẹp hơn. Bà so sánh lòng từ bi với bản thân (self-compassion) và lòng tự trọng (self-esteem). Trong khi lòng tự trọng cao dựa trên những giá trị về sự thành công cao, thì lòng từ bi với bản thân là một phẩm chất cá nhân, ở đó chúng ta đánh giá cao bản thân và đối xử tử tế với bản thân chỉ vì chúng ta là con người. Với thái độ quan tâm cho bản thân giúp chúng ta nhận ra điểm tương đồng và sự liên đới giữa chúng ta với những người khác, những người chia sẻ với chúng ta những khát vọng chung và những mầm mống của đau khổ.

Theo giáo sư Kristin Neff lòng từ bi với bản thân không làm chúng ta yếu đuối, mà đúng hơn là một phương thuốc có thể làm giảm lo lắng và làm tăng khả năng phục hồi sau thất bại. Nó không đòi hỏi chúng ta phủ nhận hoặc đè nén những kinh nghiệm tiêu cực của chúng ta. Bản chất của từ bi với bản thân là thừa nhận nỗi đau, cảm xúc của riêng chúng ta; và sau đó, an ủi mình bằng cách tạo ra những cảm xúc ấm áp, dịu dàng, và chăm sóc đến nỗi khổ, niềm đau của tự thân. **

Tóm lại, lòng từ bi với bản thân thường đem lại nhiều lợi ích. Khi mình biết đối xử tử tế với bản thân, chúng ta học cách mở rộng lòng mình với mọi kinh nghiệm, cảm xúc của chúng ta. Chúng ta cũng trở nên dể dàng từ bi với người khác hơn khi lòng yêu thương không có sự chiếm hữu hay vụ lợi, vì tình yêu thương chân thật đó sẽ giúp cho ta có một tâm hồn trong sáng để lắng nghe. Và một khi trái tim được rộng mở, thì toàn bộ cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp và hài hòa. Nhờ thế mà lòng từ bi, mong muốn cho tha nhân được hạnh phúc, sẽ được nhân đôi lên với niềm hạnh phúc của tự thân. Chính những điều đó là một năng lực từ trường có khả năng trị bệnh cho mình; đồng thời, cũng có thể giúp cho mọi người xích lại gần nhau hơn.

 
Tháng 4 – 2014
Thiện Ý



Nguồn
:

* Đặc san Hiện Thực (Úc), số 16/2009, năm thứ 5, trang 154-165. Bản Anh ngữ: Robert A.F. Thurman. “Asanga’s Teaching of Great Compassion.” Trích từ: Essential Tibetan Buddhism. [1996] - Đặng Hữu Phúc dịch.

**The Surprising Secret to Success – Be Kind to Yourself (Is Self-Compassion the Key to a Wiser, Happier Me?) Published on Feb. 8, 2012, Melanie Greenberg, Ph.D, in The Mindful Self-Express.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/10/2020(Xem: 5602)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta. Bởi con người sống với vọng tâm nên tạo ra dòng lưu chuyển sinh tử khổ đau của chúng sinh hữu tình với những quả báo sai biệt. Tất cả đều có nguồn gốc từ nhân duyên vọng tâm thiện ác. Chân tâm không sinh diệt chính là dòng hoàn diệt, cho nên chấm dứt được khổ đau, sinh tử tạo thành quả báo cũng như các quốc độ thù thắng, vi diệu, bất khả tư nghì của các bậc hiền thánh. Như vậy, phàm phu là do sống với vọng tâm thiện ác vô thường, biến hoại, sinh diệt; còn những ai sống hay an trú trong chân tâm rỗng lặng không sinh diệt thì trở nên là những bậc hiền thánh. Điều này là một chân lý.
01/10/2020(Xem: 5015)
Theo nhiều cách, khi thực hành Phật giáo cho phép chúng ta nhìn thấy những phần tiềm ẩn của bản thân. Giống như một vận động viên thể hình uốn dẻo các cơ của mình trong gương, chúng ta quan sát thể chất và tinh thần của mình từ mọi góc độ, và ghi nhận những gì ở đó. Đôi khi chúng ta thích những gì chúng ta thấy. Và đôi khi chúng ta không thích. Tuy nhiên, chính trong những khoảnh khắc mà sự phản chiếu của chúng ta khiến chúng ta thu mình lại, chúng ta sẽ tìm thấy cơ hội để phát triển.
01/10/2020(Xem: 5071)
Mấy năm qua, tôi đã quyết định từ bỏ hầu hết tài sản thế gian của mình, và vui sống trong một trang trại. Có nhiều lý do giải thích tại sao tôi đưa ra quyết định này, từ trần tục đến tâm linh. Nhưng cải giải thích đơn giản nhất là nói rằng tôi muốn “Tự do”. Tôi cảm thấy bị vướng mắc trong một công việc của công ty không được như ý. Tôi xúc động trước sự tấn công dữ dội của các công ty phương tiện truyền thông liên tục nói với tôi rằng, tôi chỉ có một lần mua hạnh phúc. Và tôi khao khát có cơ hội thực hành Phật pháp trong hòa bình.
01/10/2020(Xem: 4978)
Hội đồng Lập pháp Sikkim đã thông qua dự luật ngày 21 tháng 9 năm 2020, để thành lập một ngôi trường Đại học Phật giáo ở bang đông bắc Ấn Độ. Được biết với tên gọi Đại học Phật giáo Khangchendzonga (KBU), cơ sở này sẽ trở thành trường Đại học tư thục Phật giáo đầu tiên tại Ấn Độ, và là trường Đại học đầu tiên tại Sikkim do người dân bản địa Sikkim sáng lập.
01/10/2020(Xem: 5349)
Khi nghe Đạo Phật nói “đời là bể khổ”, nhiều người đã hiểu lầm rằng Đức Phật có quan niệm bi quan. Sự thật không phải như vậy. Từ điển đã định nghĩa bi quan là “có thói quen nghĩ rằng cái gì sắp xảy đến đều là xấu cả, đều đáng chán và không tin tưởng ở tương lai” hoặc bi quan là “chán nản, không tin tưởng, hoặc mất niềm tin vào hiện tại, tương lai”.
30/09/2020(Xem: 5430)
Cư sĩ Mahā Silā Vīravong, sử gia Lào, nhà ngữ văn, giáo viên dạy tiếng Pali, người hiện đại hóa bảng chữ cái Lào, một nhân vật trí thức lớn của nền độc lập Lào. Trong các cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của thực dân đế quốc Pháp, bằng cách tích cực hoạt động trong phong trào của Lào Issara mà ông lưu vong tại Vương quốc Thái Lan vào năm 1946.
29/09/2020(Xem: 5398)
Bảy đại diện của Hội nghị Hàn Quốc về Tôn Giáo và Hòa Bình (KCRP), bao gồm Hòa thượng Viên Hạnh (원행스님 - 圓行和尚), Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 36, đã gặp gỡ Thủ tướng Chính phủ Hàn Quốc Chung Sye-kyun (정세균; Đinh Thế Quân), và cam kết hợp lực để tìm ra một kế hoạch hợp tác, đôi bên cùng có lợi cho cả các hoạt động tôn giáo và phòng chống cơn đại dịch hiểm ác Virus corona.
29/09/2020(Xem: 4570)
Có lẽ chuyến du lịch hành hương không gian mạng, các bạn nhìn thấy một thứ tương tự như thế này từ một cửa hàng trực tuyến: “Chuỗi hạt Tây Tạng Mala Charm Vòng đeo tay Cát tường tuyệt đẹp này với các hạt màu phấn nhẹ nhàng, phù hợp để thực hành chân ngôn thần chú, và để đeo làm đồ trang sức”.
29/09/2020(Xem: 5333)
Tứ là bốn, nhiếp là thu phục, pháp là phương pháp. “Tứ Nhiếp Pháp” là bốn phương pháp lợi tha, đã được Đức Phật Thích Ca dạy cho các đệ tử tại gia cũng như xuất gia của Ngài. Bốn pháp này nếu thực hành đúng đắn sẽ có công năng giúp con người lìa xa cuộc sống buông lung, phóng túng… mà theo đó dễ có những hành động bất thiện gieo khổ đau cho người và phiền não cho mình. Tứ Nhiếp Pháp giúp con người quay về với đường ngay nẻo phải, hay chính xác hơn là trở về với Phật pháp. Phật pháp là con đường tu hành chân chính, hướng về tâm linh đi đến giác ngộ giải thoát.
29/09/2020(Xem: 5599)
Trong khi ý tưởng về Phật giáo đã đạt đến một vị thế rõ ràng trong triều đại nhà Minh (1368-1644) đã lỗi thời trong giới học giả, nó vẫn tồn tại bởi vì vẫn còn tồn tại quan niệm phổ biến, ngay cả trong giới Phật giáo đương đại, rằng Phật giáo đã đạt đến đỉnh cao về trí tuệ, và triết học vào triều đại nhà Đường (618-907), trước khi bị tê liệt bởi nhiều cuộc khủng hoảng và đàn áp, sau đó suy tàn vào triều đại nhà Tống (960-1279) và kế đến triều đại nhà Minh. Đây không phải là hoàn toàn nhầm lẫn, cũng không phải là đầy đủ câu chuyện. Nhà xuất bản Đại học Columbia một lần nữa đã phát hành một nghiên cứu đột phá, có thể thay đổi sự hiểu biết của học giả - và có lẽ là nhiều năm sau, sự hiểu biết phổ biến – về kinh nghiệm của Phật giáo vào triều đại nhà Minh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]