Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người Cư Sĩ Phật Giáo

16/03/201407:44(Xem: 6765)
Người Cư Sĩ Phật Giáo

khoatuhoc-20-5a
NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT GIÁO
Tô Đăng Khoa

Đây là vị đệ tử cư sĩ của Đức Phật, vị ấy sống tại gia. Vị ấy đã thiết lập niềm tin vững chắc trong sự tỉnh thức của Đức Phật. Vị ấy sống tự rèn luyện từ hành động và lời nói, cử chỉ của mình. Vị ấy sống biết hổ thẹn, xấu hổ, thấy lổi của mình trong những việc nhỏ nhặt. Vị ấy sống nuôi dưỡng tâm từ đối với tất cả loài hữu tình. Vị ấy sống rộng lượng, biết hy sinh và cho đi.

Đây là cách thực hành Giáo Pháp của vị ấy: Vị ấy luôn nắm lấy cơ hội để lắng nghe Giáo Pháp - lời của Đức Phật, các bậc Thiện Tri Thức đã thức tỉnh. Nhưng không phải chỉ có lắng nghe: Vị ấy quyết chí ghi nhớ Pháp đã được nghe. Vị ấy cố gắng ghi nhớ nó, giữ nó trong tâm trí của mình: Bởi vì vị ấy biết rằng, nhờ vậy vị ấy luôn luôn suy ngẫm về Pháp, luôn luôn hướng tâm tới Pháp, để hiểu Pháp một cách sâu sắc, và sống tùy Pháp mọi lúc mọi nơi.

Bằng cách thực hành nhiều lần như vậy, vị ấy thành tựu Chánh Kiến, Chánh Tư Duy và rõ biết Pháp. Vị ấy nhận ra: Pháp là quy luật tự nhiên, muốn thoát khổ, vị ấy phải tuệ tri như thật đối với tất cả Pháp. Nhờ thành tựu Chánh Kiến, Chánh Tư Duy như vậy, cuộc sống của vị ấy được hài hòa trọn vẹn với Pháp.

Vị ấy tự mình kinh nghiệm và rõ biết chắc chắn rằng toàn bộ cuộc sống của mình đang được tác động và chuyển hóa bởi sự kỳ diệu của Pháp. Trong công việc của mình, vị ấy siêng năng, chăm chỉ trong bổn phận, không tranh chấp với bất cứ ai trong đời. Về tài chính, vị ấy sống luôn biết đủ, chi tiêu những gì cần thiết, tránh nợ, và rõ biết lợi ích của việc tiết kiệm.

Vị ấy lưu tâm chăm sóc tốt sức khỏe vật chất và tinh thần của cha mẹ, bảo bọc tương kính người bạn đời và cùng nhau cân nhắc chú tâm đến việc nuôi nấng và giáo dục con cái. Do biết cách thu xếp cuộc sống theo bổn phận của một người cư sĩ tại gia một cách thiện xão như vậy, cuộc sống thế tục của vị ấy được cân bằng: tâm vị ấy không bị chi phối bởi đời sống thế tục. Thời gian còn lại vị ấy dành hết cho đời sống tinh thần của mình.

Ít nhất mỗi tuần một lần, mặc vào bộ đồ lam tượng trưng cho sự tinh khiết của người cư sĩ, vị ấy dành ra một ngày cho sự im lặng của bậc Thánh. Vị ấy cho phép tâm của mình tự thanh tịnh trong sự tĩnh lặng cao quý này của thân, khẩu và ý. Vị ấy biết, một ngày sống trong sự im lặng của bậc thánh, được đi theo bước chân của các vị A La Hán của Thế Tôn, giá trị hơn bất kỳ tài sản thế gian nào. Mỗi ngày, vị ấy tự nhắc nhở mình về Pháp đã được học: vị ấy gìn giữ cho ngôn ngữ về Pháp được trong sáng và đơn giản (qua việc ghi nhớ những lời của Đức Phật Nguyên Thủy được viết ra từ ngôn ngữ gốc Pali).

Vị ấy gìn giữ lời dạy của Thế Tôn như gìn giữ Pháp Nhãn của mình. Vị ấy tránh xa tất cả tranh luận, không liên hệ đến mục đích về Pháp, vị ấy rõ biết: Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết (hoàn thiện ở gian đoạn đầu-tức là Giới, hoàn thiện ở giai đoạn giữa-tức là Định, hoàn thiện ở giai đoạn cuối -tức là Tuệ, đầy đủ văn đầy đủ nghĩa), thiết thực hiện tại, không có thời gian, có khả năng hướng thượng, chỉ do người trí tự tu, tự chứng, tự nhận thức.

Mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu một ngày mới, vị ấy khẳng định lại niềm tin của mình trong sự giác ngộ của đức Phật và sự tuyên bố, minh thị của Ngài về Pháp. Vị ấy phát nguyện sẽ tự mình độc hành độc bộ đi theo con đường này một cách nghiêm chỉnh suốt kiếp này. Suốt ngày trong 4 oai nghi, vị ấy bình tĩnh ghi nhận về ý nghĩa của tất cả Pháp đúng như vị ấy đã được học: Vị ấy nhận rõ tất cả Pháp: Đây là Vô Thường, đây là Khổ, đây là Vô Ngã. Đây là Chánh Kiến của vị ấy.

Vị ấy biết, từ sự cân bằng và sống biết đủ của đời sống tại gia và tự tin nơi Pháp sẽ đưa đến hoan hỷ, từ hoan hỷ sẽ đưa đến an lạc. Đây là sự an lạc không liên hệ đến sự tham dục. Niềm an lạc bên trong này sẽ dẫn vị ấy an trú vững chắc, bình tĩnh nơi Sơ Định. Vị ấy thực hành tùy Pháp, tuần tự tịnh chỉ tất cả các Hành, vốn như người thợ xây nhà làm cho hiện hửu tất cả các Pháp hữu vi. Vị ấy làm cho tịnh chỉ lời nói, tầm tứ, thọ tưởng, và hơi thở ra vô. Vị ấy tự thân kinh nghiệm lần đầu tiên sự an lạc tối thượng do sự tịnh chỉ các Hành đưa đến. Nhưng trên tất cả, vị ấy biết không có niềm vui nào cao hơn sự nhận thức (trực nhận) sự vô thường của sáu giác quan, sáu căn và sáu thức, sự trực nhận về khổ, sự sanh khởi, sự đoạn diệt, và con đường đưa tới sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn.

Vị ấy trực nhận về Tánh Duyên Khởi của Tất Cả. Vị ấy trực nhận Y Duyên Khởi Pháp Tánh, tức là Pháp Tánh Bổn Trụ, vị ấy xác quyết rõ ràng như vậy, không thể khác hơn được, không thể dùng khái niệm quy ước phân tách được. Sau khi xác nhận Pháp Tánh vốn Y Duyên Khởi Như Vậy, tâm vị xả niệm thanh tịnh, và trở nên an tịnh ngay trên trú xứ của nó (tức là 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức) và an trú Bất Động, Vô Tướng Tâm Định. Vị ấy tuệ tri: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự tịnh chỉ tất cả các Hành, sự từ bỏ tất cả Sanh Y, sự ái diệt, sự ly tham, đoạn diệt, Niết Bàn”

Đối với vị ấy, không có việc gì đáng làm hơn thế nữa. Đối với đời sống hiện tại, vị ấy vẫn mặc quần áo Lam, sống giữa vợ và các con, tham gia vào các việc có lợi ích cho xã hội. Vị ấy sống tùy Pháp, tùy duyên và căn cơ người đối diện, chia sẽ lại kinh nghiệm của chính mình về con đường dẫn đến Hữu Dư Niết Bàn như đã được chỉ ra bởi các đấng Giác Ngộ. Đây chính là người cư sĩ của Đức Phật. Từ Pháp hoá sanh, là người thừa tự Pháp, không thừa tự vật chất.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5091)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6965)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]