Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Câu Chuyện Về Bộ Tam Y Quý Giá

15/03/201405:36(Xem: 31327)
23. Câu Chuyện Về Bộ Tam Y Quý Giá
Mot cuoc doi bia 02

Câu Chuyện
Về Bộ Tam Y Quý Giá
Và Đức Phật Metteyya (Di Lặc) Vị Lai







Chiều ngày thứ ba, lệnh bà Mahā Pajāpati Gotamī cùng với cung nga thể nữ theo hầu, đến đại viên Nigrodhārāma dâng lên đức Phật một bộ tam y quý giá. Câu chuyện về bộ tam y ấy có nhiều tình tiết rất hy hữu...

Trong lần đức Phật về thăm quê nhà cùng với giáo đoàn thanh tịnh, thấy uy đức của ngài, lệnh bà Gotamī phát khởi đức tin trong sạch, tự nghĩ:“Ta muốn cúng dường cái gì đó cho xứng đáng, khác thường lên đức Thế Tôn mà nghĩ hoài không ra! Một món ăn dù sơn hào hải vị, nhưng ăn xong là hết! Ngọc ngà châu báu, tràng hoa, hương liệu thì các vị sa-môn không thọ dụng! Sập trầm hương, nệm lông thú... cũng không được phép! Hay là tự tay ta hãy làm nên một bộ y quý trọng...”

Thế rồi, sau khi hình bóng đức Phật và giáo đoàn vừa rời khỏi Kapilavatthu, lệnh bà Gotamī cho truyền thợ kim hoàn đến hoàng cung, lấy vàng trong kho đúc bảy chậu vàng rất lớn. Xong rồi, lệnh bà chuẩn bị đất trồng. Đất này không phải là đất bình thường - có dính tạp chất và xú uế. Bao nhiêu lá thơm, rễ thơm, vỏ thơm, cành thơm, cỏ thơm, hoa thơm... lệnh bà cho ủ thành từng đống, từng đống... Mấy tháng sau, từng đống thơm ấy biến thành đất, lấy đất ấy bỏ vào chậu vàng làm chất liệu để ươm bông vải. Rồi chính tự tay lệnh bà săn sóc tưới tắm hằng ngày... Nước tưới bao giờ cũng hòa với sữa tươi và hương thơm. Và bón thêm phân – thì bao giờ phân ấy cũng là các chất thơm ủ đống lại mà thành. Những cây bông vải lớn lên rất nhanh. Tự tay lệnh bà lại thu hái - những trái bông vải có màu vàng óng ánh như mạ vàng mười. Sau đó, lệnh bà chỉ đạo dọn sạch, tẩy uế cả một cung phòng đẹp đẽ rồi cho thỉnh mời những thợ dệt tài hoa đến làm việc. Lệnh bà trả lương rất cao cho thầy thợ, nhưng với điều kiện là họ phải thọ trì bát quan trai giới, tắm giặt hằng ngày và áo quần phải luôn luôn tinh tươm, sạch sẽ... Ròng rã mấy tháng, ba tấm vải mới hoàn thành...

Lúc ấy, tại đại viên Nigrodhārāma, đức Phật đang thuyết pháp – có hai hàng trưởng lão ngồi xung quanh cùng với hội chúng chư tăng và cư sĩ có đến mấy nghìn người. Thời pháp vừa dứt, lệnh bà Gotamī đội mâm vàng trên có ba tấm y, đi bằng hai đầu gối từ ngoài vào, sau lưng là mấy chục cung nga, thị nữ...

- Bạch đức Thế Tôn! Đây là ba tấm y đã tự tay tôi trồng cây bông vải, tự chăm sóc tưới bón bằng hương thơm, tự tay tôi thu hái, kéo sợi, sau đó thuê thợ dệt - thọ trì bát quan giới thanh tịnh - làm việc trong một căn phòng tẩm hương! Đây là cả một tấm lòng quý kính, thanh tịnh của tôi đối với đức Thế Tôn - những mong ngài thọ nhận để cho tôi có chút ít phước báu trong ngày vị lai...

Đợi cho lệnh bà tác bạch ba lần, đức Phật nói:

- Bộ tam y ấy quý báu lắm vì nó hội đủ ba yếu tố thanh tịnh: Tự tay làm và hoan hỷ trước khi ươm trồng, tự tay làm và hoan hỷ trong khi thu hái, kéo sợi, tự tay làm và hoan hỷ mang đến cúng dường! Vậy này di mẫu! Di mẫu hãy dâng bộ tam y ấy lên tăng – vì dâng cúng dường lên tăng - phước báu còn cao thượng hơn là dâng cúng đến Như Lai nữa! Di mẫu hãy chú tâm lắng nghe, Như Lai sẽ giải thích điều ấy...

Đức Phật ra dấu cho người thị nữ nâng mâm vàng, đợi lệnh bà yên tĩnh ngồi xuống; ngài mới nói:

- Di mẫu biết không, Như Lai rồi sẽ nhập diệt; còn giáo pháp được truyền thừa mai hậu, phương này và phương khác đều là công đức của tăng. Đây là lý do chính yếu, quan trọng mà di mẫu nên cúng dường đến tăng!

Nếu di mẫu cúng dường cho Như Lai thì sự cúng dường ấy ẩn chứa tình cảm riêng tư, thiên vị, ích kỷ và hạn hẹp - được gọi chung là cá-nhân-thí – kết quả của phước báu ấy sẽ rất giới hạn vậy. Cúng dường đến tăng thì ly thoát được tình cảm riêng tư, thiên vị, ích kỷ và hạn hẹp - được gọi là tập-thể-thí - kết quả của phước báu này sẽ vô lượng, vô biên... Vì lợi ích và hạnh phúc lâu dài cho di mẫu mà Như Lai làm như vậy, chứ Như Lai cũng hiểu rõ sự dụng tâm lao khổ của di mẫu lắm chứ...

Thấy lệnh bà Gotamī đã thấy ra vấn đề - đức Phật muốn giảng rộng đề tài cho toàn thể hội chúng cùng tiếp thu.

- Này chư tỳ-khưu và hai hàng cư sĩ áo trắng! Đức Phật cao giọng giảng - Có mười bốn loại cá-nhân-thí khác nhau, nhân khác nhau, quả khác nhau, phước báu thù thắng, vi diệu, cao thấp, nhiều ít - đều khác nhau:

Thù thắng đệ nhất là đức Chánh Đẳng Giác.

Thù thắng đệ nhị là đức Phật Độc Giác.

Vi diệu, đệ tam là chư vị A-la-hán.

Vi diệu, thứ tư là những sa-môn đang nỗ lực để chứng đắc đạo quả A-la-hán.

Cao thượng, thứ năm là những sa-môn đắc quả A-na-hàm.

Cao thượng, thứ sáu là những sa-môn đang nỗ lực để chứng đắc đạo quả A-na-hàm.

Cao thượng, thứ bảy là những sa-môn đắc quả Tư-đà hàm.

Cao thượng, thứ tám là những sa-môn đang nỗ lực để chứng đắc đạo quả Tư-đà-hàm.

Cao thượng, thứ chín là những sa-môn đắc quả Tu-đà-hoàn.

Cao thượng, thứ mười là những sa-môn đang nỗ lực để chứng đắc đạo quả Tu-đà-hoàn.

Thứ mười một, có phước báu giới hạn – là những đạo sĩ ngoại đạo đắc ngũ thông.

Thứ mười hai, phước báu ít hơn nữa – là tại gia cư sĩ có giới đức.

Thứ mười ba, phước báu càng ít hơn nữa – là người không có giới hạnh.

Thứ mười bốn, chỉ chút ít phước báu là động vật, thú vật...

Nghỉ hơi một lát, đức Phật giảng tiếp:

- Mười bốn đối tượng để cúng dường, bố thí nêu trên - quyết định của phước báu, phần lớn là tùy thuộc tâm thanh tịnh nhiều, ít hoặc còn ác nghiệp, tham sân, phiền não của nhân, vật thọ nhận. Ví dụ, người không có giới và thú vật thì rất ít phước báu. Còn nữa, người cúng dường, bố thí đang ở trong trạng thái tâm và trí nào? Thanh tịnh, không thanh tịnh, hỷ, không hỷ, có trí, không trí, tà kiến, không tà kiến, tự ý hay không tự ý, tùy thích, tình cảm riêng tư, tâm từ, tâm bi, tâm xả, cầu nhân quả hay không cầu nhân quả, để diệt phiền não, được phú quý, gieo duyên hay mong được năm quả báo: Sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức khỏe, trí tuệ? Các trạng thái tâm và trí ấy cũng quyết định phần lớn đến phước quả! Ngoài ra, bố thí cho thú vật có ân với người – cho quả khác hơn với thú vật không có ân với người! Có ân thì phước lớn hơn! Bố thí cho thú vật hiền lành phước báu lớn hơn các loại động vật hoang dã, độc hại, hung bạo – như rắn rít, cọp beo. Với người đói khổ, nghèo nàn nhưng tâm tánh hiền lành, chất phác, quả phước chắc hẳn lớn hơn kẻ ngu si, ác độc, hung dữ!

Này chư tỳ-khưu và hai hàng cư sĩ áo trắng! Đức Phật nói tiếp - Và sau đây là bảy loại tập-thể-thí, phước quả bao giờ cũng thù thắng hơn mười bốn cá-nhân-thí vừa rồi:

Thứ nhất, thù thắng, vĩ đại và cao thượng nhất là cúng dường đến giáo đoàn tăng đông đảo, có cả Như Lai.

Thứ hai, cúng dường đến giáo đoàn tăng đông đảo – không có Như Lai.

Thứ ba, cúng dường đến hội chúng tăng trong một ngôi chùa, một tịnh xá, một tự viện.

Thứ tư, cúng dường một chúng tỳ-khưu do tăng phân phối, chỉ định.

Thứ năm, cúng dường một số đông tỳ-khưu, tùy theo sức mình, không lựa chọn.

Thứ sáu, cúng dường bốn năm vị tỳ-khưu trở lên do tăng chỉ định.

Thứ bảy, cúng dường một vị tỳ khưu tại tư gia do tăng chỉ định.

Người cúng dường trong bảy loại tập-thể-thí ấy - sở dĩ cao thượng, thù thắng, vì họ không hề nghĩ đến mình, nhân quả của mình – mà chỉ nghĩ đến Tam Bảo, lợi ích của Tam Bảo; chỉ nghĩ đến tập thể tăng, hộ độ tăng, lợi ích cho tăng; chỉ nghĩ đến sự phát triển giáo pháp thịnh mãn trong tương lai. Cho đến nỗi, khi họ thỉnh một vị về nhà - do tăng chỉ định - vị ấy phá giới, không có giới, họ cũng không quan tâm, không phân biệt, chỉ nghĩ là cúng dường đến tăng – thì phước báu ấy được trải dài cả a-tăng-kỳ kiếp! Tại sao vậy? Vì cá nhân thì có kẻ tốt, người xấu, có giới và không giới - nhưng tăng là đại biểu cho một hội chúng thánh phàm tăng quá khứ, thánh phàm tăng hiện tại, thánh phàm tăng đương lai - hội chúng tăng ấy bao giờ cũng thanh tịnh!

Thời pháp của đức Phật như một trận mưa lành mát mẻ làm cho tất cả mọi người thấy rõ sâu cạn, xa gần, gốc ngọn, nhân quả của sự bố thí - nhất là lệnh bà Gotamī - bà đã vô cùng hoan hỷ.

Đức Phật biết còn có chuyện nên lặng lẽ mỉm cười khi thấy lệnh bà dâng tam y đến ngài Sāriputta. Tôn giả không thọ nhận, mỉm cười nói: “Lệnh bà nên dâng cho vị khác, tôi đã có đủ ba y”. Đến lượt tôn giả Mahā Moggallāna, ngài cũng nói: “Tôi cũng đã có đủ ba y rồi”. Tôn giả Mahā Kassapa thì mỉm cười: “Tôi đã quen mặc y vải lượm, sẽ có vị khác cần hơn”. Rồi cứ thế, bộ tam y quý giá được trôi chảy qua mấy chục vị trưởng lão, lướt qua mấy trăm vị tân tỳ-khưu rồi dừng lại nơi vị tỳ-khưu vừa mới thọ giới... Lệnh bà Gotamī thấy mình tủi thân, buồn muốn khóc!

Biết tâm tư của lệnh bà, đức Phật sẵn có cái bát gần bên, ngài cầm lên tay, lâm râm chú nguyện rồi thảy cái bát ra giữa quãng không, cái bát biến mất... Ngài nói:

- Ở nơi này, vị tỳ-khưu nào có thần thông lực, có đại thần thông lực, hãy đi tìm kiếm giúp cái bát ấy rồi mang về đây cho Như Lai!

Thế rồi, tôn giả Sāriputta xin phép đức Phật, vận dụng thần thông lực bay khắp tam thiên, đại thiên thế giới, trở về, thưa là không thể tìm ra! Tôn giả Mahā Moggallāna, bậc đệ nhất thần thông, sau khi tìm không ra, bay lên cõi Phạm thiên, Đẩu-suất, Đao-lợi... hỏi chúa các vị trời – cũng không thấy! Rồi lần lượt các vị khác, cũng thử vận may, và dĩ nhiên là không thể...

Đức Phật thấy cả hội chúng bất lực, ngài nói:

- Này Ajita - vị tân tỳ-khưu bất đắc dĩ nhận bộ tam y quý báu – Ông có thể cầu may hoặc do phước của ông, đi tìm cái bát của Như Lai xem thử thế nào!

Tân tỳ-khưu Ajita rúng động, tự nghĩ:“Thật là chuyện hy hữu, diệu kỳ, phi thường thay! Tất cả các ngài đều là những bậc thánh nhân vô lậu, đều là những vị đại A-la-hán, đại thần thông lực – đi tìm không ra cái bát! Còn ta là ai, ta là gì, một kẻ phàm phu thiểu trí, vô năng, tham sân phiền não dẫy đầy - đức Thế Tôn lại bảo ta hãy đi tìm bát? Cái thấy biết bất khả tư nghì của đức Tôn Sư chắc là có duyên cớ gì đây, vậy ta hãy nghe lệnh ngài!” Nghĩ thế xong, tâm tư Ajita phát sanh phỉ lạc chưa từng có, đến đảnh lễ đức Phật rồi bước ra hiên, ngó lên không trung, phát lời đại nguyện: “Nếu tôi xuất gia theo giáo pháp của đức Thế Tôn – mà vì lý do kiếm tìm hỷ mãn tứ sự, tham cầu hỷ đắc danh vọng, lợi dưỡng – thì xin cho cái bát đừng trở lại tay tôi! Nhược bằng, tôi xuất gia có tâm thành tín, trong sạch, cần cầu nỗ lực tấn tu phạm hạnh, mục đích diệt trừ tham sân phiền não, chứng đắc đạo quả vô thượng, độ mình, độ người – thì xin cho cái bát hãy rơi xuống tay tôi!”

Sau lời nguyện, điều phi thường xảy ra: Không biết từ đâu đó, cái bát của đức Phật đã nằm trên tay của thanh niên tân tỳ-khưu Ajita!

Hội chúng trông thấy hiện tượng kỳ diệu, vô cùng hoan hỷ! Riêng lệnh bà Gotamī thì bao nhiêu thương thân tủi phận đều tiêu tan, một ý nghĩ như ánh sáng tuệ bừng lên: “Chỉ một vị tân tỳ-khưu mà oai lực đã như thế - huống hồ là uy đức của hội chúng tăng đoàn gồm có cả đức Phật? Ồ! Ta đã hiểu giá trị của tập thể thí rồi!”

Muốn để cho niềm vui của lệnh bà được hỷ mãn, đức Phật chợt tuyên bố:

- Vị tân tỳ-khưu Ajita trẻ tuổi này – mai sau sẽ là một vị Phật, một đức Chánh Đẳng Giác oai lực vô song, có ngoại hiệu là Metteyya! Như vậy là di mẫu không những vừa cúng dường bộ tam y quý giá lên tăng – mà còn cúng dường lên một vị Phật hậu lai nữa!

Lệnh bà Gotamī sụp lạy, vô cùng tri ân; đến đây, bà mới hiểu trọn vẹn sự dụng tâm chu đáo, vô lượng bi mẫn của đức Toàn Giác đối với bà.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/06/2015(Xem: 9100)
Như truyền thông đại chúng đã loan tải vào ngày 24 tháng 4/ 2015 một trận động đất xảy ra tại đất nước Nepal đã làm thiệt mạng gần 9.000 nạn nhân, và làm sập hư trên 100.000 ngôi nhà, trong hiện tại có trên 200.000 người không nhà cửa, và hàng ngàn trẻ em mồ côi cha mẹ. Nhìn thấy cảnh đời bể dâu tang thương đổ nát của người dân Nepal, Hòa Thượng Hội Chủ Thích Như Huệ đã ra thông tư, cũng như tâm thư kêu gọi lòng từ tâm của người con Phật. Sau gần 2 tháng kêu gọi, với tấm lòng tùy tâm của đồng hương Phật tử xa gần trong và ngoài nước Úc, cũng như 37 tự viện thành viên của Giáo Hội đã đem đến kết quả với số tiền cứu trợ là $ 304.900. Úc Kim. Phái Đoàn Cứu Trợ Nepal thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan đã lên đường vào tối ngày 8.6.2015 tại sân bay Melbourne.
29/06/2015(Xem: 8100)
Thời tiết mùa hè năm nay bất thường. Đã có những ngày quá oi bức, và cũng có những ngày lù mù, không mưa không nắng, gió se lạnh. Khí hậu đôi khi cũng tác động vào lòng người, khiến họ dễ bẳn gắt, khó chịu. Những người đã nuôi dưỡng từ lâu sự kỳ thị, thành kiến, hay tỵ hiềm nào đó, có thể bị thời tiết nóng bức châm ngòi cho sân hận và sự bạo động. Đã có những cuộc khủng bố đơn phương hoặc nhân danh tổ chức (thế tục hay tôn giáo) diễn ra khắp hành tinh trong những tháng năm qua.
27/06/2015(Xem: 12077)
Qua 4000 năm Văn Hiến của dân tộc thì trên 2000 năm, Phật giáo có mặt, đồng hành cùng dân tộc. Tính từ thời lập quốc họ Hồng Bàng – Kinh Dương Vương tên nước là Xích Quỷ (năm 2879 trước c.n) đến thời nhà Lý vào năm 1010-1225 đã là 4000 năm, đến nay cũng gần 5.000 năm. Từ thời lập quốc ở Trường Giang, bị Hoa tộc lấn dần cho đến Hùng Vương qua 18 đời, đất nước Văn Lang chỉ còn lại Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay.Quê hương vốn ở Hồ Động Đình, do Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh 100 con lập quốc. Kinh Dương Vương là con của Đế Minh và Vụ Tiên, là cháu ba đời của Thần Nông, mà Thần Nông là một trong Tam Hoàng thời thượng cổ.Như thế, Lạc Long Quân là con của Kinh Dương Vương, Kinh Dương Vương là họ Hồng Bàng, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, Lạc Long Quân truyền cho Hùng Vương, lấy quốc hiệu là Văn Lang. Từ thời kinh Dương Vương lập quốc đến nay, dân tộc trãi qua 11 lần thay danh đổi hiệu:
24/06/2015(Xem: 30993)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
23/06/2015(Xem: 12952)
Câu hỏi: Lý do tại sao Trịnh Hội lại đi học tu? Có phải bị mất phương hướng cuộc đời hay chán cuộc đời nhiều phiền toái?(Than Nguyen ) Trả lời: Xin chào anh Than Nguyen. Có hai lý do chính thưa anh. Thứ nhất vì cách đây 3 năm mình có lời cầu nguyện với chư Phật là nếu cho mình cơ hội làm xong công việc giúp những thuyên nhân Việt Nam cuối cùng tại Thái Lan, mình sẽ xuống tóc để cảm ơn. Thứ hai là, một công hai việc, mình muốn và cần một thời gian tĩnh lặng để xem mình thật sự muốn làm gì trong suốt quãng đời còn lại.
23/06/2015(Xem: 12216)
Hơn hai mươi năm trước, khi đọc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nói về tiếng chuông Chùa Hàn San ở Tô Châu bên Trung Hoa, tôi cứ thắc mắc không hiểu tại sao thơ Đường có không biết bao nhiêu bài thơ tuyệt tác, vậy mà bài thơ chỉ bốn câu này lại gây ra bao nhiêu cuộc bút đàm tốn bao nhiêu giấy mực. Hay tại vì ngôi Chùa ở bến Cô Tô này đã quá nổi tiếng chăng? Nhưng đã ngờ thì phải cố mày mò tìm cho ra lẽ. Tôi tìm đọc thêm những câu chuyện chung quanh quả Đại hồng chung và tiếng chuông Hàn San. Nhiều huyền thoại đọc thật thú vị nhưng sao thấy nó cứ thực thực hư hư! Trong số ấy có một câu chuyện nói rằng, tiếng chuông chùa Hàn San có thể ngân vang rất xa, xa
21/06/2015(Xem: 7245)
Văn phòng Chính phủ Tây Tạng lưu vong, Dharamsala đưa tin – Hội nghị Tôn giáo lần thứ 12 của bốn truyền thống Phật giáo Tây Tạng đã diễn ra vào các ngày 18-20/06/2015 tại Dharamsala miền bắc của bang Himachal Pradesh, Tây Bắc của Ấn Độ.
21/06/2015(Xem: 9534)
Trong đạo Phật có câu nói rất phổ biến là “Nhất niệm thông tam giới,” một niệm biến khắp ba cõi – cõi dục, sắc, và vô sắc. Một niệm tức là một móng tâm, một ý nghĩ khởi sinh từ tâm. Điều này cho thấy hai ý nghĩa: làn sóng vi ba khởi sinh từ tâm dù vô hình vô tướng vẫn có thể lan xa khắp ba cõi, và qua đó, ảnh hưởng của một niệm có thể bao trùm cả cõi không gian rộng lớn vô cùng. Quan điểm này có thể nhìn thấy rõ nhất trong thế giới truyền thông ngày nay. Chỉ trong chớp mắt, trong một cái nhấp tay hay cái bấm tay trên máy điện toán hay điện thoại cầm tay thì một bản tin, một sự kiện, một hình ảnh có thể đi khắp thế giới và ảnh hưởng đến hàng tỉ người trong “ngôi làng toàn cầu.”[1]
20/06/2015(Xem: 14579)
Bài thơ đầu anh viết tặng em Là bài thơ anh kể về đôi dép Khi nỗi nhớ ở trong lòng da diết Những vật tầm thường cũng biến thành thơ
18/06/2015(Xem: 6472)
Hãy Lắng Tâm Cảm Nhận Này bạn, bạn đi đâu đấy, đứng lại đây với tôi một phút, chỉ một phút thôi!!! Bạn hãy cùng tôi quan sát những người đi đường kia xem. Bạn có thấy là họ đang hối hả lao về phía trước không? Đang ở trong nhà thì họ lao ra đường, đang ở đường thì họ vội vã phóng về nhà. Nhìn họ chẳng có chút bình an nào cả, khuôn mặt ai cũng căng như dây đàn. Họ vội vã đi, vội vã làm, vội vã nói, vội vã ăn, ngay cả đi chơi cũng vội vã. Họ đã đánh mất đi khả năng sống thư thái, an nhàn. Họ không làm chủ được cuộc đời của mình, họ bị cuộc đời rượt đuổi. Nếu họ không biết dừng lại thì họ sẽ phải hối hả như vậy suốt cuộc đời. Bạn cứ thử nghĩ mà xem, làm sao mà người ta có thể bình an hạnh phúc khi trong tâm lúc nào cũng đầy ắp những toan tính, lo âu và đôi chân thì cứ lao về phía trước (mà không biết lao về đâu)? Và bạn biết không, nếu có ai đó đứng bên kia đường nhìn về phía bạn thì thấy chính bạn cũng nằm trong cái đám đông hỗn l
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]