Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Tấm Nệm Cỏ Kusa

14/03/201418:29(Xem: 23092)
24. Tấm Nệm Cỏ Kusa


Mot_Cuoc_Doi_01

24. Tấm Nệm Cỏ Kusa





Đêm rồi, Siddhattha Gotama trải qua một giấc ngủ ngon, sáng ngày, chàng cảm nghe sinh lực dồi dào chảy tràn trong cơ thể.

Nắng sớm vàng trong, gió nhẹ lay động cành lá. Với tinh thần phơi phới, chàng đi kinh hành lui tới ven sông. Xế trưa, cô bé Puṇṇā lại tìm tới với sữa, đề hồ và bánh trái.

- Cháu lại đến cúng thần linh nữa à?

- Dạ vâng! Rồi cô bé kể - Bà cháu lúc còn là con gái, thấy cội cây Assattha to lớn, uy nghiêm này, nghĩ chắc là có thần linh nên thường đến đây cầu nguyện “xin cho tôi có được một tấm chồng cùng dòng dõi huyết thống, vừa giàu sang vừa đẹp tính, đẹp người; sau đó cho tôi sinh được một bé trai khôi ngô, kháu khỉnh, dễ dạy, dễ bảo. Tôi sẽ lễ tạ thần linh bằng cơm, sữa, bánh trái trọng hậu nhất”. Thế rồi, nguyện ước xưa giờ đã thành tựu.

Siddhatha Gotama ngồi xuống cho vừa tầm bé gái, mỉm cười. Cô bé Puṇṇā đều đều tiếp:

- Cái cội cây Assattha có thần linh này đã cho bà chủ cháu một tấm chồng như ý, lại còn ban một bé trai đẹp đẽ như con trời. Ngày rằm tháng Vesākha này, bà chủ cháu sẽ đến đây tạ lễ chính. Còn trước ba ngày, cháu đến đây để cúng những lễ phụ.

- À ra là vậy.

- Ngài sa-môn biết không! Để chuẩn bị cho vật thực cúng dường đầy trân trọng và đầy thành kính vào ngày trăng tròn này, bà cháu đã vô cùng công phu...

- Ừ cháu kể, ta nghe!

- Bà chủ cháu giàu lắm. Ông chủ cháu lại rất tốt bụng. Ông cười hiền lành khi thấy bà chủ chuẩn bị sữa để cúng tạ thần linh. Bà nuôi mấy chục con bò sữa cao lớn, sung sức nhất; lấy sữa của mấy chục con bò này để nuôi tám con bò sữa mập ú; lấy sữa của tám con bò sữa mập ú này chỉ để nuôi hai con bò sữa đang tơ. Và sữa của hai con bò này chỉ dành riêng để cúng thần. Sữa hôm qua sa-môn dùng là sữa tuyệt vời kia đấy!

Nghe đến đây, Siddhattha Gotama không còn ngạc nhiên nữa. Sữa hôm qua đúng là dược phẩm, là thuốc bổ hồi sinh thật sự. Siddhatha Gotama cười nói:

- Nó không những là thuốc bổ, nó còn là thần dược.

- Đúng vậy! Cô bé gật - Bà chủ cháu còn hòa vào trong biết bao nhiêu là thuốc quý đấy!

Bé Puṇṇā lại nói tiếp:

- Đúng ngày lễ chính, bà chủ cháu sẽ lấy sữa kia làm nước để nấu một mâm cơm đặc biệt; và ngay chính hạt gạo để nấu cơm cũng không phải là gạo thường... Triệu phú mới có đấy!

Bé Puṇṇā cười vô tư lự. Nó thấy mình kính mến ông sa-môn hiền từ này. Sớm hôm ấy, bé Puṇṇā đã bẻ cây làm chổi, quét dọn sạch sẽ từ trong ra ngoài, sạch từ kẽ đá, từng hang hốc rễ cây cho đến tận bờ sông...

Thế rồi, qua mấy ngày được tẩm bổ, Siddhattha Gotama đã có da, có thịt trở lại; ba mươi hai quý tướng và tám mươi vẻ đẹp lần lần hiện ra.

Trong lúc ấy, năm người bạn đồng tu lặng lẽ bỏ đi mất. Họ rất thất vọng khi thấy Siddhattha Gotama thọ thực đầy đủ, lại còn trò chuyện vui vẻ với một cô bé gái.

“- Ông ta đã từ bỏ con đường tối thượng rồi! Koṇḍañña buồn bã nói với các bạn - Chúng ta không còn trông cậy, tin tưởng gì nơi ông ta được nữa. Siddhattha Gotama của chúng ta đã trở về với đời sống lợi dưỡng, tẩm bổ xác thân một cách dung tục. Chúng ta đi thôi.”

Nhận thấy sự hiểu lầm của họ, nhưng Siddhattha Gotama chưa vội đính chính. Trong những ngày này, chàng đang có cuộc chuyển hóa quan trọng về nhận thức, đã có cái gì đó đang xảy ra trong nội tâm. Siddhattha Gotama đang dần dần hình thành lộ trình tu tập rất mới mẻ. Chàng từ bỏ khổ hạnh, nghĩa là từ bỏ con đường truyền thống. Và chàng sẽ nương tựa các nấc thiền hữu sắc, ở đó có pháp lạc, thanh tịnh, thuần thục và nhu nhuyến của tâm. Nương tựa vào chúng để bắt đầu nhìn ngắm diễn tiến, vận hành của sự sống. Và sự sống là gì? Sự sống là cái đang diễn ra, tương quan giữa toàn bộ con người mình, thân tâm này cùng với ngoại giới. Đau khổ, phiền não, sầu muộn, tham sân gì gì cũng phát sanh từ đấy, thì sự tu tập của ta cũng phải được ngắm nhìn từ đấy!

Đêm mười bốn tháng tư Âm lịch (Vesākha), dưới cội cây Assattha hùng vĩ, Siddhattha an trú các định hữu sắc, nuôi dưỡng phỉ lạc, khuya, canh hai, chàng nằm nghỉ. Khoảng giữa canh ba, chàng nằm mộng...

Siddhattha Gotama thấy mình nằm trên mặt đất, đầu gối đỉnh núi Himalaya, tay trái đặt vắt qua phía đông đại dương, tay phải đặt vắt qua phía tây đại dương, hai chân duỗi thẳng, gác qua châu Diêm-phù-đề, thòng xuống phía nam đại dương.

Siddhattha Gotama thấy có một cây cỏ, tên gọi tiriyā mọc từ lỗ rún và lớn lên. Nó to dần, cao dần lên một gang, một cùi, một sải... một do-tuần đến trăm do-tuần... rồi đứng chật cả hư không, tỏa tám cành ra tám hướng... xanh um, mát mẻ.

Siddhattha Gotama thấy một đám dòi đầu đen, mình trắng, lũ lượt bò từ đầu đến chân, đến đầu gối rồi bao phủ đầy đặc cả ống chân.

Siddhattha Gotama thấy bốn loài chim có bốn màu xanh, đỏ, vàng, đen từ bốn hướng cùng bay đậu nơi chân mình; bỗng nhiên, chúng hóa thành màu trắng hết.

Siddhattha Gotama thấy mình đi qua đi lại, đi lên đi xuống trên đống phẩn cao to như ngọn núi; nhưng hai chân không hề dính một chút dơ bẩn, không lây một chút xú uế nào cả.

Lúc sao mai vừa mọc, Siddhattha Gotama tỉnh dậy, giấc mộng đang còn mới mẻ, chàng tự đoán ngay rằng:

“- Điềm triệu thứ nhất: Ta sẽ thành bậc Chánh Đẳng Giác, trở thành vị Phật trên quả đất này.

Điềm triệu thứ hai: Có một giáo pháp “trung đạo” (vì cây mọc chính giữa lỗ rún), có tám nhánh - để giáo hóa chư thiên và nhân loại (Bát chánh đạo).

Điềm triệu thứ ba: Hội chúng cư sĩ (tóc đen mặc áo trắng) sẽ đến quy y, nương nhờ dưới chân ta, để tu tập.

Điềm triệu thứ tư: Những người có đức tin, đủ thành phần trong bốn giai cấp sẽ đến xuất gia tu tập; rồi cả bốn giai cấp đều được hòa tan, tẩy sạch trong biển pháp (màu trắng), chấm dứt kỳ thị.

Điềm triệu thứ năm: Nhiều người đến bố thí, cúng dường; nhưng khi thọ dụng bốn món vật dụng, ta sẽ không say mê, không dính mắc nó.

Sau khi giải minh năm điềm triệu, Siddhattha Gotama thấy lòng hân hoan, phỉ lạc. Vệ sinh cá nhân xong, chàng đi kinh hành một lát rồi xuống sông tắm.

Dòng nước ban mai mát lạnh, Siddhattha Gotama tiếp nhận từ làn da, từ lỗ chân lông cảm giác dễ chịu ấy. Tai chàng nghe được cả âm thanh lao xao của từng làn sóng nước... Mũi chàng ngửi được cả mùi hương của rong rêu, của cả thiên nhiên hoang sơ... Ngũ quan và nhận thức đã trở nên tinh tế. Không thể rời bỏ thế giới hiện tượng, sự sống mà phải lắng nghe, cảm nhận hiện tượng, sự sống một cách trọn vẹn, sâu sắc... Từ cơ sở ấy, cảm giác, tri giác, tâm hành, nhận thức cũng phải được lắng nghe một cách chân thực. Như dòng sông này, các giọt nước kế tục trôi chảy như thế nào thì cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức của ta cũng trôi chảy như thế...

Lúc ngồi thiền dưới gốc cây, Siddhattha Gotama duy trì, tăng cường sự chú tâm và tỉnh giác để lắng nghe toàn thể thân, tâm cùng các đối tượng của chúng. Tất cả đều trôi chảy, tụ rồi tan, đến rồi đi liên tục, không gián cách. Không một cảm thọ, tri giác, tâm hành, nhận thức nào có thực tính, ngã tính... Cái mà Vệ-đà bảo là tiểu ngã (atman, atta), là linh hồn thường tại đồng một thể với đại ngã vũ trụ (mahātman) chợt rã tan như bong bóng nước... Tất cả chúng đều là vô ngã (anatta)... Sự thấy rõ bằng thực chứng, bằng quán chiếu tự thân này cho Siddhattha Gotama một phỉ lạc chưa từng thấy...

Khi nàng Sujātā và cô bé Puṇṇā mang lễ vật đến gốc cây cúng thần linh thì họ thấy một vị thần hào quang sáng rực đang tĩnh tại tọa thiền. Ngay cả cô bé Puṇṇā cũng cảm nhận khác lạ. Đây đúng là vị sa-môn gầy khô sắp chết đói mấy bữa trước - nhưng dường như đã hóa sanh thành một con người khác. Đúng là có thần linh rồi! Đúng là thần linh mới có dung sắc và hào quang như vậy.

Nàng Sujātā sai Puṇṇā sắp đặt lễ phẩm trên chiếc mâm vàng gồm cơm sữa và bánh trái khác, quỳ xuống, đội lên đầu rồi thành kính nói:

- Thưa ngài, thưa vị thọ thần uy linh! Con là Sujātā, ngài đã theo lời ước nguyện của con, ban cho con một tấm chồng đẹp đẽ, giàu sang và tốt bụng; lại còn ban cho con một bé trai có tướng mạo, dung sắc như một tiểu thiên thần. Vậy là con đã hoàn toàn mãn nguyện. Hôm nay, con đến đây để tạ lễ, mong ngài chứng giám cho lòng thành của con...

Siddhattha Gotama xả thiền, mỉm cười nói:

- Ta chỉ là một sa-môn đang tầm đạo thôi, có phải là thần linh gì đâu, cô bé Puṇṇā biết kìa!

Cô bé Puṇṇā vẫn đang quỳ mọp bên chủ, bây giờ mới ngước đầu lên:

- Không, hôm nay ngài sa-môn đúng là thần linh. Bà chủ con và con đều thấy rõ như vậy.

Riêng nàng Sujātā thì vô cùng tri ân và xúc động, tự nghĩ: “Thần linh đã cảm ứng cho lòng thành của ta nên đã hóa thân nơi vị sa-môn thân tướng cao sang, quý phái này.”

Siddhattha Gotama tự nghĩ: “Tất cả đều có nhân và duyên. Ta hãy thọ nhận vì lợi ích cho nàng và cũng lợi ích cho cuộc chuyển hóa vĩ đại đang ở nơi ta”. Khi nàng Sujātā và cô bé Puṇṇā dâng nguyên cả mâm bằng vàng(1)cho trọn lễ ra về rồi, Siddhattha Gotama đứng trầm tư, quán tưởng giây lát... rồi chậm rãi từng bước một, ra bờ sông. Lựa một đám cỏ sạch, Siddhattha ngồi xếp bằng, vo tròn cơm sữa thành bốn mươi chín vắt to bằng trái thốt nốt. Chánh niệm, tỉnh giác, Siddhattha chú nguyện rồi độ thực hết bốn mươi chín vắt cơm ấy. Cầm mâm vàng, đứng lên, Siddhattha phát nguyện rằng:

“- Nếu dưới cội cây Assattha kia mà ta đắc thành quả vị Chánh Đẳng Giác thì xin mâm vàng này trôi ngược dòng sông. Bằng không thể đắc quả Phật thì mâm vàng này sẽ trôi xuôi.”

Nguyện xong, Siddhattha Gotama thảy mâm vàng ra giữa sông. Lạ lùng thay, chiếc mâm vàng như tấm thia lia băng băng trôi ngược nguồn, lên phía thượng lưu, khoảng chừng tám mươi hắc tay thì chìm xuống.

Ngay lúc ấy, trên thế gian thì không có chuyện gì, nhưng dưới thủy cung có chuyện lạ. Nguyên dưới cung điện của Long vương đã có ba chiếc mâm vàng của ba vị Phật quá khứ, đó là đức Phật Kakusandha, đức Phật Koṇāgamana, đức Phật Kassapa. Khi chiếc mâm vàng của Siddhattha Gotama chìm xuống, trôi về thủy cung, đụng phải ba chiếc mâm vàng trước, tiếng ngân vang lên. Long vương Kāḷānaga lúc ấy đang ngủ, nghe âm thanh của mâm vàng chạm nhau, thức dậy, mỉm cười nói rằng: “Chà! Mới hôm qua một vị Phật xuất hiện, hôm nay lại một vị Phật khác nữa ra đời!”

Siddhattha Gotama biết nguyện mình sẽ đạt, lòng hân hoan, thư thái; và còn biết rõ rằng: Sự chuyển hóa của mình, cái nhìn mới mẻ của mình về sự tu tập là chính xác, đúng đắn! Bước về cội cây Assattha, Siddhattha Gotama rất tự tin khi thấy mình đã chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc hạ thủ công phu mà không còn sợ phải lầm lạc nữa.

Bắt chước cô bé Puṇṇā, Siddhattha Gotama đi bẻ lá quét dọn rồi ôm một ôm lá khác sắp xếp lên nhau để làm một chỗ ngồi. Khi đang hí hoáy với công việc, một cậu bé chăn bò đội một bó cỏ lớn đi ngang. Cậu ta dừng lại, tò mò nhìn một lát rồi nói:

- Này ông sa-môn! Đám lá ấy không thể trải chỗ ngồi được đâu, chỉ vài ba hôm là bầm dập, hư nát. Phải là cỏ này. Cỏ kusa này để lâu nó sẽ khô và bốc mùi thơm dễ chịu. Con biếu tặng ông sa-môn đây.

Nói xong, cậu bé chăn bò đặt bó cỏ xuống. Nó gồm có tám bó nhỏ đều đặn mà bề dài lại vừa khít, vuông vức một chỗ ngồi. Một lát, cậu bé chăn bò đã làm xong, trông rất đẹp đẽ. Siddhattha Gotama cất giọng thiện cảm:

- Cảm ơn bạn nhiều lắm!

- Dạ, không có chi.

- Bạn tên gì? Ở có xa đây không?

- Dạ, con tên là Sotthiya. Con thuộc giai cấp Sudra, ở cũng gần đây thôi!

- Sotthiya biếu cho ta bó cỏ quý này thì lấy gì để mang về nhà?

- Dạ, không sao, con sẽ kiếm bó khác. Chỉ có một con bò sữa què chân thôi mà!

Tuy chỉ là tấm nệm cỏ tầm thường làm tọa cụ, nhưng dưới con mắt nghiệp cảm của phi nhơn, chư thiên, ma vương thì đấy là cả một bồ đoàn quý báu, tên là Ratanapallaṇka, cao mười bốn cùi tay, xung quanh đều được chạm khắc công phu, đính bảy báu - là phước báu trang nghiêm của ngài được tích lũy Pāramī từ vô lượng kiếp.

Lúc Sotthiya vừa đi khỏi, Siddhattha Gotama lên ngồi trên nệm cỏ, thấy êm ái và thoáng mát; ngài quay mặt về hướng đông, thấy khí và lực của mình thuận hợp với khí và lực của vũ trụ. Toàn thể tế bào, máu huyết như được tiếp thêm năng lượng. Nhiếp tâm thanh tĩnh, điều hòa hơi thở, Siddhattha Gotama phát lời đại nguyện:

“- Dù máu huyết khô cạn, dù chỉ còn gân, xương và da; ta quyết không rời khỏi nệm cỏ này nếu ta chưa đắc thành quả Phật”.

Sidddhattha Gotama vừa phát nguyện xong thì không gian như chao đảo, quả địa cầu rung chuyển dữ dội. Tấm nệm cỏ tầm thường bây giờ đã biến thành bồ đoàn chiến thắng (aparājata panllaṅka) sừng sững, bất động như thách thức muôn ngàn bóng đêm của vô minh và si mê.

Vua trời Sakka, trong khi ấy, phải tức tốc rời khỏi ngai vàng, sai vị thiên Pañcasikha mang đàn beḷuva xuống nhân gian tấu nhạc cúng dường. Vua trời Suyāma ở cõi Yama và vua trời Santusita ở cõi Tusita hối hả bay xuống cầm quạt đứng hầu hai bên. Phạm thiên Sāhampati là bạn của ngài từ thời đức Phật Kassapa thì cầm chiếc lọng trắng, đứng trang nghiêm, bất động... che mát cho Siddhattha Gotama. Còn Long vương Kāḷānaga thì dẫn nguyên một đoàn mỹ nữ, tưng bừng, rộn rã hát lên một ca khúc chưa từng được nghe:

“- Hỡi người con ưu tú, tinh anh của vũ trụ

Hỡi đấng vương giả cao sang, quyền quý

Mà ngũ dục tối thượng của cuộc đời

Cũng không thể ràng buộc được.

Hỡi bậc bồ-tát vô tỉ!

Mà sức mạnh và ý chí kiên cường

Thắng xa một ngàn con chiến mã Sindhu vô địch

Thắng xa một ngàn con voi trắng thuần chủng, oai hùng.

Người đã tự mình vạch ra một lộ trình

Chưa hề có trên thế gian

Đã bắt đầu tìm kiếm, khám phá

Ý nghĩa và giá trị vĩnh cửu của cuộc sống

Lợi dưỡng - người đã từng lợi dưỡng tối thắng

Khổ hạnh - người đã từng khổ hạnh tối thượng

Người là sự kết tụ ánh sáng rực rỡ

Nóng ấm của mặt trời

Và ánh sáng dịu dàng, mát mẻ của mặt trăng

Người sẽ tìm ra con đường bất tử

Người sẽ tìm ra phương thuốc nhiệm mầu cứu khổ cho muôn triệu sinh linh

Hãy rọi ánh sáng trí tuệ, giải thoát

Cho chúng sanh trong đêm đen trường mộng

Muôn ngàn cõi đang rung động, hân hoan

Muôn triệu chúng sanh đang khao khát ánh đạo vàng”

Lúc tiếng hát lời ca của chúng long nữ vừa dứt thì tại cõi trời Vasavatti, Chúa ma vương hoảng hốt, dựng tóc gáy. Đúng là điềm triệu bất tường rồi. Cái ông Siddhattha Gotama sắp bước ra khỏi uy lực của ta. Ông ta đang muốn dùng ánh sáng bé mọn ấy để thách thức ta, muốn xuyên thủng bóng đêm sâu thẳm mà ta đã từng tung rải trên thế gian từ vô thỉ đến nay!?

Ác Ma thiên tự nghĩ:

“- Lợi dưỡng tối thượng không quyến rũ được ông ta. Chuyển luân Thánh vương ông ta cũng không màng. Tế thần lửa ông ta xem là mê tín. Khổ hạnh tối thượng ông ta cũng từ bỏ. Bây giờ, Siddhattha Gotama đang ngồi tĩnh tọa trên chiếc bồ đoàn quý báu kia và phát lời đại nguyện bất thối. Ông ta muốn thoát khỏi quyền lực của ta thật rồi! Vậy hôm nay, ta phải dùng uy lực tối thắng, sức mạnh tối thắng để chiếm lấy cái bồ đoàn, hoặc đẩy bật ông ta ra khỏi bồ đoàn - thì đại nguyện kia sẽ không thành tựu”.

Thế rồi, Ác Ma thiên huy động toàn bộ thiên binh, thiên tướng, trang bị tất cả mọi loại vũ khí hình thù quái dị có tính năng kinh khiếp nhất, rầm rộ rời Tha hóa tự tại thiên, trực chỉ cõi trần, xuống khu rừng Uruvelā.

Ác Ma thiên đi đầu, cỡi voi Girimekhala, hóa ra ngàn cánh tay đều cầm khí giới, với khuôn mặt dữ tợn cùng với mười đạo binh, vây quanh cội cây Assattha kéo dài mười hai do-tuần, bên trên hư không dày đặc chín do-tuần. Chúng la hét vang rền, chấn động khắp các cõi(1).

Phạm thiên, Long vương, các vị thiên vương Sakka, thiên vương Suyāma, thiên vương Santusita đang đứng hầu xung quanh bồ đoàn, thoáng thấy Ác Ma thiên với thiên binh, thiên tướng, vũ khí hình thù quái dị, đằng đằng sát khí... bèn hội ý với nhau rất nhanh:

- Cả nội ma và ngoại ma đều ào ạt tấn công Siddhattha Gotama, chúng ta phải làm sao?

- Bậc vĩ đại phải chiến đấu đơn độc là lẽ tất nhiên. Chúng ta đi thôi!

Thế là họ trở về trú xứ của mình. Trong lúc ấy Ác Ma thiên dặn bảo thuộc hạ của mình: “Oai lực của Siddhattha Gotama rất phi thường, thế gian không có ai sánh được, các ngươi chớ khá xem thường. Vậy đừng có dại dột chiến đấu trực diện. Phải đánh lén hoặc đánh vào hướng sau lưng”.

Siddhattha Gotama suy nghĩ: “Những đạo quân ma vương phiền não sẽ tấn công ta. Nó sẽ tấn công toàn diện bằng những vũ khí cực kỳ lợi hại. Tại đây, ta chẳng có cha mẹ, bằng hữu hoặc bà con quyến thuộc. Tuy nhiên, các toán binh ma đâu biết rằng, cuộc chiến này ta không hề đơn độc. Ta đã có sẵn ba mươi pháp hành Pāramī. Chúng sẽ là những thuộc hạ thân tín mà ta đã dày công nuôi dưỡng trải qua vô số kiếp. Chúng chính là đội quân thiện chiến, bất khả chiến bại. Chúng sẽ bảo vệ ta một cách an toàn. Chúng sẽ vô hiệu hóa tức khắc các cuộc tấn công của ma quân.”

Nghĩ thế xong, Siddhattha Gotama trú định, huy động sức mạnh cuồn cuộn của năng lực Pāramī tạo nên sự kiên định, vững vàng như đỉnh núi chúa Sineru, chờ đợi sự tấn công của Ác Ma thiên.

Đầu tiên, Ác Ma thiên dùng vũ khí cuồng phong, mà sức mạnh của nó hung tợn hơn cả ngàn con tuấn mã... đồng loạt lao tới bồ đoàn. Dù trận cuồng phong thật là kinh thiên động địa nhưng nó chợt tan biến, không hề lay động chéo y của Siddhattha Gotama.

Ác Ma thiên sững sờ, kinh ngạc; tức giận quá, bèn sử dụng vũ khí nước lũ. Nó hóa phép làm một trận mưa lớn như thác đổ, xối xả xuống cội cây Assattha. Nhờ oai lực Pāramī, chẳng có một hạt nước nào rơi trúng vào ngài.

Ác Ma thiên phùng mang trợn mắt đến tóe máu, sử dụng vũ khí mưa đá than hồng, từng cục đá cháy đỏ hừng hực rơi liên miên bất tận xuống bồ đoàn. Và rồi, ô kìa! Những viên đá cháy đỏ chợt biến thành những đóa hồng hoa tươi thắm, nhẹ nhàng kết thành từng xâu, từng chuỗi... trông đẹp xiết bao!

Nộ khí xung thiên, Ác Ma thiên hóa hiện trận mưa vũ khí. Đấy là những khí giới có răng cưa, có móc nhọn, có lưỡi bén, có tua tủa móc... trăm trăm, ngàn ngàn như thế... dội xuống đầu Siddhattha Gotama! Ồ! Kỳ lạ không, tất cả vũ khí quái dị ấy chợt biến thành những đóa hoa kim loại với hình tướng, sắc vẻ lạ lùng!

Bốc giận tợ thiên lôi giáng, Ác Ma thiên, hai mắt đỏ rực như hai chậu máu, sử dụng vũ khí mưa lửa. Thế là từng dòng mưa lửa đỏ rực cả vùng trời, đốt cháy cả không gian rồi ồ ạt tuôn đổ xuống cội cây Assattha. Ồ! Mưa lửa lại hóa thành những chùm hoa lửa đẹp vô cùng!

Ác Ma thiên dường như đã hóa cuồng, sử dụng luôn đồng loạt vũ khí mưa tro nóng, mưa cát cháy, vũ khí mưa bùn, vũ khí không gian tối đen mù mịt... nhưng rồi cũng vô ích. Tro nóng biến thành bột thơm. Cát cháy biến thành vật thơm. Bùn biến thành nước thơm. Còn không gian dẫu có tối đen mù mịt - cội Assattha, bồ đoàn chiến thắng và Siddhattha Gotama vẫn sáng rỡ như ánh trăng rằm.

Đã sử dụng hết chín loại vũ khí hung dữ, bạo tàn nhưng vẫn thất bại chua cay, vẫn không lay động Siddhattha Gotama, Ác Ma thiên tức giận quá, ra oai la mắng thuộc hạ:

- Các ngươi sao đứng im sững như thế? Sao không cùng xông vào một lượt để đâm, chém, chặt, móc, cưa, xẻ ông ta ra? Sao không đuổi ông ta ra khỏi cái bồ đoàn bất trị ấy?

Ác Ma thiên hò hét đã khô hơi, rát cổ nhưng chẳng có ma nào dám xông đến gần vì oai lực của Siddhattha Gotama đã tạo nên một vòng đai vô hình, một tường thành Pāramī kiên cố toát ra một năng lực làm cho chúng sợ hãi co rúm lại.

Chẳng biết sao hơn, Ác Ma thiên cưỡi voi Girimekhala, đến gần cội cây Assattha, mở lời tranh đoạt:

- Siddhattha Gotama! Ngươi hãy mau mau rời khỏi cái bồ đoàn kia vì nó là của ta!

Siddhattha Gotama bây giờ mới tạm rời xa năm sức mạnh nội tâm - tín, tấn, niệm, định, tuệ - chậm rãi nói:

- Này Ác Ma thiên! Trên đời này ta chưa thấy ai ngu si, cuồng vọng và dai dẳng như ngươi, cứ bám sát theo ta mãi! Và bây giờ, ta cũng chưa thấy ai trên đời nói ra lời cưỡng từ, đoạt lý như ngươi; loạn danh, loạn thực như ngươi! Chiếc nệm cỏ này có được là do nhờ tám bó cỏ cúng dường của cậu bé chăn bò Sotthiya; sau đó nó trở thành chiếc bồ đoàn trang nghiêm, kỳ vĩ là do nhờ phước báu Pāramī sinh ra. Từ vô số kiếp, ta đã dày công tu tập các công hạnh, nhất là bố thí bậc thượng, bậc trung và bậc hạ - nên mới có được chiếc bồ đoàn thù thắng này. Còn ngươi, do tham vọng mù quáng, do muốn củng cố địa vị, quyền lực và hư danh mà đến đây muốn tranh đoạt với ta sao? Thật là ngông cuồng, xấc láo! Hãy biến đi! Hãy tan vào bóng tối muôn đời vô tận ngu si và kiêu ngạo của ngươi!

Ác Ma thiên lầm lì không nói nữa, giận dữ rút vũ khí vòng sắt cực kỳ nguy hiểm ra. Đây là vũ khí thứ mười, vũ khí tối hậu, có năng lực khủng khiếp mà Ác Ma thiên chưa bao giờ dùng tới. Nếu chiếc vòng sắt này ném xuống đất thì mặt đất sẽ bị thiêu cháy, suốt mười hai năm không cây cỏ nào mọc được. Nếu vòng sắt này ném lên hư không thì suốt mười hai năm không có một giọt mưa nào rơi xuống. Nếu chiếc vòng sắt ném vào núi Sineru thì núi chúa sẽ bị cắt làm hai phần!

Với ý chí quyết thắng, vì muốn tiêu diệt Siddhattha Gotama và chiếc bồ đoàn, Ác Ma thiên phủ đòn tối hậu, quăng chiếc vòng sắt đến cội cây. Chiếc vòng sắt phát ra tiếng sấm sét vang rền giữa không gian...

Một số phạm thiên, chư thiên lo ngại cho sự an toàn sanh mạng của Siddhattha Gotama. Một số khác, tin vào phước báu và oai lực Pāramī của ngài, sẽ không có một loại vũ khí nào xâm hại được; và cuối cùng ngài sẽ chứng đạo quả Phật.

Quả thật vậy, niềm tin ấy là đúng. Siddhattha Gotama trú định, huy động toàn bộ sức mạnh Pāramī để đón nhận cơn phẫn nộ địa ngục của Ác Ma. Cuối cùng, chiếc vòng sắt đe dọa khủng khiếp kia chợt biến thành chiếc khăn hoa, bay lượn phất phới, như đến lau chùi chiếc bồ đoàn!

Vậy là Ác Ma thiên hoàn toàn thua cuộc, tuy nhiên, nó chẳng sượng sùng gì, vẫn tỏ ra ngang bướng, cứng đầu:

- Siddhattha Gotama! Hãy trả bồ đoàn ấy cho ta?

Do cảm ứng tâm linh và cũng do đức tin bất thối, Siddhattha Gotama chợt nói:

- Ta muốn ngươi thua cuộc một cách tâm phục, khẩu phục. Nghe ta hỏi đây. Bồ đoàn này là của ngươi thì lấy gì làm bằng chứng?

Ác Ma thiên đắc chí, cười ha hả:

- Tất cả thiên binh, thiên tướng này họ sẽ làm chứng cho ta.

Bọn ma quân nhao nhao lên:

- Đúng vậy, tất cả chúng tôi đồng làm chứng, chiếc bồ đoàn kia là sở hữu của thiên chúa chúng tôi.

Ác Ma thiên thấy mình thắng thế, cười to lên:

- Siddhattha Gotama nói là có ba mươi Pāramī... gì gì đó... nên bồ đoàn kia là sở hữu phước báu của mình. Vậy thì bây giờ, ai là kẻ làm chứng cho ngài đây?

Siddhattha Gotama vẫn an nhiên, trầm lặng, bởi ngài tin vào năng lực Pāramī của mình, tự nghĩ: “Trong thời gian gần đây, ta phát sanh niềm tin chắc thật là từ vô số kiếp, ta đã tu tập tròn đủ Pāramī. Ta biết ta đã có sẵn năm đại thí và ba pháp hành.”(1)Nghĩ thế xong, Siddhattha Gotama bèn chỉ tay xuống đất, tuyên bố bằng lời chân thật:

- Ta có ba mươi Pāramī, đó là điều chắc thật. Riêng bố thí thì ta cũng đã tròn đủ năm đại thí. Tuy ở đây chẳng có chúng hữu tình nào làm chứng cho ta điều ấy. Nhưng còn có quả đất. Quả đất dẫu không có tâm thức, nhưng nó cũng có thể chấn động, rung động bảy lần để làm chứng cho lời nói chân thật của ta!

Lạ lùng thay, Siddhattha Gotama vừa dứt lời, lập tức quả đất chuyển mình dữ dội, rung động bảy lần, phát ra âm thanh đì đùng như bão nổi tự trong lòng địa cầu. Nước biển đột ngột như long vương quẫy mình, sùng sục, ì ầm dâng lên cao, hất tung những quả núi sóng lên không gian. Mưa ào ào như trút, nước đổ xuống, nước tràn lên, tràn lên mãi...

Ác Ma thiên ngồi trên lưng voi Girimekhala cao to như ngọn đồi cũng phải chao đảo, ngả nghiêng... rồi dần dần bị ngập sâu trong nước, bị nước cuốn trôi phăng. Đến đây, mọi pháp lực của ma vương đã trở nên vô dụng; nó hoang mang, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, ném bỏ tất cả vũ khí, huy động tàn lực, thúc hối voi Girimekhala vọt khỏi dòng nước dữ, hớt hải bay về cung trời Tha hóa tự tại không dám ngoảnh mặt nhìn lui. Quần ma khiếp đảm, vội vã quăng bỏ vũ khí, mặt nạ... hỗn loạn chạy trốn theo chân chủ soái.

Mười ngàn thế giới vui mừng, đồng thanh reo vang, âm thanh như hải triều âm, vang vọng khắp cả mấy tầng trời để tán thán, ca ngợi oai lực Pāramī bất khả chiến bại của Siddhattha Gotama.

Cuộc chiến đấu lạ lùng ở trên, chỉ có một mình Siddhattha Gotama, ở cõi người cùng thế giới chư thiên, phạm thiên hay biết. Cội cây Assattha vẫn an tĩnh. Trời đã ngả bóng về chiều. Chiếc bồ đoàn vẫn điềm nhiên, bất động. Siddhattha Gotama suốt hai khắc giờ thiền định, lưu giữ cận định, soi chiếu nội tâm, thấy rõ toàn bộ ma quân phiền não ngủ ngầm từ vô lượng kiếp đến nay. Đã điểm mặt, chỉ tên từng phiền não một, thô tháo có, vi tế có. Như mặt trời rọi đến đâu thì sương tan đến đấy, cũng vậy, lúc trí tuệ bừng sáng, những kiết sử, tùy miên đều hiện rõ mặt mày. Chúng chẳng thể đeo mặt nạ, ngụy trang, đánh lừa ai được nữa.

Mặt trời sắp lặn. Siddhattha Gotama ngắm nhìn quang cảnh một lát rồi trở lại lắng nghe dòng tâm đang trôi chảy an nhiên, tĩnh tại, trong sáng - Siddhattha biết mình sẽ đi trọn đêm nay để thực nghiệm bài toán tâm linh đã có cách giải. Lúc ấy là đêm mười bốn tháng tư Vesākha, Ấn Độ.



(1) Có tư liệu nói là vào năm 1972 có một phái đoàn khảo cổ đã đào bới ngôi nhà cũ của nàng Sujātā, phát hiện rất nhiều mâm vàng, mâm bạc, chén vàng, chén bạc...

(1)10 loại vũ khí của 10 đạo binh ma là tượng trưng cho 10 loại phiền não sau đây: Tham dục (kama), bất mãn (arati), đói khát (khupipasa), ái dục (taṇhā), hôn trầm - thụy miên (thīna, middha), sợ hãi (bhayā), hoài nghi (viccikicha), phỉ báng, cố chấp (kukkha – thambha), lợi lộc, khen tặng, vinh dự, danh vọng (labha, siloka, sakkara, yasa), tự tán, hỷ tha (attukkamsanaparavambhana).

(1)5 đại bố thí là: Bố thí vợ, con, của cải, tứ chi, sanh mạng. 3 pháp hành là: Hành đem lại lợi ích cho thế gian, lợi ích cho quyến thuộc và lợi ích cho sau này thành tựu quả vị Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4939)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5087)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4435)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4696)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3603)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5054)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]