Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những nẽo đường tâm linh

13/03/201419:44(Xem: 6987)
Những nẽo đường tâm linh

Sakya_Muni_24
NHỮNG NẼO ĐƯỜNG TÂM LINH.

Tâm linh là sự khát khao của những tâm hồn hướng thượng, vật dục là sự thèm khát của những ai thích thụ hưởng cảm thọ vật thể..

Những dân tộc có nền văn hóa sâu đậm, thâm thúy, cho dù dân tộc đó già cổi hay non trẻ, cũng đều có chiều kích tâm linh đáng kính. Tùy trình độ của mỗi dân tộc, tùy căn cơ của tầng lớp tín ngưỡng mà có những tầng bậc tâm linh cao thấp khác nhau. Tâm linh là cách nói chung về đức tin phi vật thể, vì thế, tín ngưỡng tâm linh cũng có hai dạng: Tà tín và chánh đạo!

Tà tín là sự khao khác những nhu cầu tín ngưỡng tầm thường liên quan đến vật thể và những nhu cầu lợi dưỡng trong đời sống vật thể, vì thế đưa đến mong cầu, khấn nguyện. Chánh đạo là con đường hướng đến thoát ly mọi ràng buộc phiền não, vì thế, vô cầu, vô chứng vô đắc. Chánh đạo cũng có nhiều nẽo đi tùy theo căn cơ của tín giả. Như những nấc bậc của cây thang, tuy thấp cao có khác, nhưng tựu chung vẫn hướng đế đỉnh như nhau.

Ấn Độ là một trong những nước có chiều kích tâm linh sâu đậm; Trước Ấn giáo, Bà La Môn giáo cũng đã có vô số học thuyết triết lý về nhân sinh vũ trụ, những triết luận như thế không phải để phục vụ lòng khao khát về những vấn nạn của khoa học mà là chìa khóa áp dụng vào cuộc sống tâm linh. Trước những triết luận siêu hình, các minh sư Thánh triết giúp cho hành giả tín chúng thực hành hiện thực hơn là giải đáp viễn vông rơi vào nhị đế, kiến chấp nhị biên. Ví dụ kinh "Thanh Tịnh" trong Trường A Hàm, thuật lại câu chuyện của một thầy Sa Di đến thỉnh Phật về những đúng sai trong cộng đồng tu sĩ thuộc giáo đoàn ngoại giáo, khi mà vị thầy Bổn sư của họ qua đời:

"Một thời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng của Ưu-bà-tắc Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người.

Bấy giờ, có Sa- di Châu-na, ở tại nước Ba-ba, sau an cư mùa hạ, cầm y bát, đi lần đến nước Ca-duy-la-vệ, trong vườn Miến-kỳ; đến chỗ A-nan, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng sang một bên, bạch A-nan rằng:

“Có Ni-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của ông đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửi nhau, không còn phân biệt trên dưới; tìm tòi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau rằng: Ta có thể biết điều này; ngươi không thể biết điều này. Hành động của ta chân chính, còn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, không có phép tắc. Những điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bạch Đại đức A-nan, bấy giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranh tụng như vậy sinh lòng chán ghét”.”

A-nan nói với Sa-di Châu-na:

“Ta có điều muốn bạch Thế Tôn. Ngươi hãy đi với ta, trình bày Thế Tôn về sự việc này. Nếu Thế Tôn có răn dạy điều gì, chúng ta hãy cùng phụng hành”.”

Rồi thì, Sa-di Châu-na sau khi nghe A-nan nói bèn cùng đi theo đến chỗ Thế Tôn. Sau khi cúi lạy dưới chân Thế Tôn, bèn đứng sang một bên. Lúc bấy giờ, A-nan bạch Thế Tôn rằng:

“Sa-di Châu-na này, sau an cư mùa hạ ở nước Ba-ba, cầm y bát, đi lần đến đây. Sau khi đảnh lễ dưới chân con, nói với con rằng: Có Ni-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệ tử của ông đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trực diện mắng chửi nhau, không còn phân biệt trên dưới; tìm tòi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau rằng: Ta có thể biết điều này; ngươi không thể biết điều này. Hành động của ta chân chính, còn ngươi là tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo, thác loạn, không có phép tắc. Những điều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bấy giờ, những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranh tụng như vậy sinh lòng chán ghét.”.”

Thế Tôn nói với Châu-na: “Trong số các đệ tử của vị ấy có người không thuận theo pháp ấy, dứt bỏ tà kiến ấy, đi theo chánh kiến. Châu-na, nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Này chư Hiền, pháp của thầy ông là chân chánh, nên tu hành trong pháp ấy, sao lại bỏ đi? Nếu người đệ tử này mà tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vô lượng. Vì sao vậy? Kia tuy có pháp, nhưng không chân chánh.

“Châu-na, nếu thầy không tà kiến và pháp ấy chân chánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất yếu, là pháp được nói bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp mới có thể dễ dàng bôi màu. Nhưng nếu các đệ tử, ở trong pháp ấy, không tinh cần tu tập, không thể thành tựu, bỏ con đường bình đẳng, đi vào tà kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Này chư Hiền, pháp của thầy các người là chân chánh, nên ở trong đó mà tu hành, sao lại bỏ đi mà đi vào tà kiến? Các đệ tử ấy nếu tin lời ấy, thì cả hai đều thấy chân chánh, được phước vô lượng. Vì sao vậy? Vì Pháp ấy chân chánh”.”

Phật bảo Châu-na:

“Kia tuy có thầy, nhưng ôm giữ tà kiến. Tuy cũng có pháp, nhưng thảy đều không chân chánh, không có khả năng xuất yếu, không phải là pháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp đổ nát không thể bôi màu. Các đệ tử kia thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận theo mà tu hành, nhưng lại khởi tà kiến. Châu-na, nếu có người đến nói đệ tử ấy rằng: Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Điều ngươi làm là đúng. Nay ngươi tu hành cần khổ như vậy, có thể ở trong đời này ngươi sẽ thành tựu đạo quả. Các đệ tử kia tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vô lượng. Vì sao vậy? Vì pháp không chân chánh vậy.

“Này Châu-na, nếu bậc thầy không tà kiến; Pháp của vị ấy chân chánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất ly, là pháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp mới thì dễ bôi màu. Nay đệ tử của vị ấy thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận tu hành mà sanh chánh kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Sở hành của ngươi là đúng. Nay cần khổ tu hành như vậy, có thể ở trong đời này mà thành tựu đạo quả. Các đệ tử kia tin lời ấy, cả hai đều chánh kiến, được phước vô lượng. Vì sao vậy? Vì pháp ấy chân chánh...."

Như vậy, dưới nhãn quan của Phật giáo, chánh pháp là pháp môn được truyền thừa từ bậc Chánh biến Tri; Một bậc thầy chân chánh, một pháp môn chân chánh, sẽ giúp hành giả tu tập chân chánh tiền đến giải thoát thật sự.

76 luận thuyết ngoại giáo đương thời, ai cũng tự nhận pháp mình là chân chánh, đức Bổn sư chúng ta đã trãi qua nhiều pháp khổ hạnh, đều đắc pháp của những vị thầy đó, nhưng với tuệ giác của Ngài, các pháp đó chưa đủ công năng giúp cho hành giả giải thoát thật sự, mới chỉ là sơ khởi của sự chối bỏ cảm thọ, thậm chí, có pháp rơi vào cực đoan vi tế ngã.

Một pháp hành, cho dù tín giả đắc pháp mà còn vướng vi tế ngã, cũng sẽ lạc vào một trong 50 ngũ ấm ma của kinh Lăng Nghiêm giải bày. Với sự khao khát tột đỉnh, nhiều hành giả như vớ được phao cứu sinh khi gặp bất cứ pháp môn nào, nhất là những pháp dễ đưa đến thể nghiệm linh ảnh. Bất cứ pháp môn chân chánh nào, hành giả miên mật, thể nhập vào đại trí Như Lai, cũng đều trãi qua những thể nghiệm tâm linh. Những linh ảnh phát xuất từ hai trường hợp, một, là do tưởng thức tiềm phục ngấm ngầm trổi dậy khi Mạt Na tạm lắng trong Hàm tàng thức. Linh ảnh bấy giờ là chiếc bóng phản chiếu từ đáy của Alaiya thức. Hai, là hiện thể chân tâm của tuệ giác từ một hành giả chứng đắc. Chỉ có bậc thoát ly vi tế ngã thì linh ảnh mới thật sự là cái thấu suốt chân thật, bằng không, chỉ là ảo giác đánh lừa đưa hành giả vào tà kiến mê trận.

Một pháp môn chân chánh đều giúp hành giả phát triển lòng từ, trí tuệ vô sư và tâm an lạc vô biên, nhưng đó chưa phải là đích tối hậu mà chỉ là tín hiệu xác định hướng đi đúng để hành giả tiếp tục lộ rình miên mật. Hành giả tự mãn với những tín hiệu như thế là tự mình dẫm chân tại chỗ, sơ suất sẽ lạc vào thọ lạc vi tế.

Nẽo về tâm linh có vạn lối đi cũng vạn lối lệch lạc, ngay cả Thiền Vipassana, một pháp nội quán lâu đời của Phật giáo do đức Phật truyền dạy, nhưng có môt vài cá nhân tự tu một cách tinh cần, khi ánh sáng tuệ giác sơ khởi lóe hiện giúp cho hành giả thấy được tiền kiếp hay biết được tâm niệm của đối tượng, hành giả liền chấp vào sự ngộ chứng. Phương pháp thiền Vipassana là một phương pháp đơn giản và thực tiễn để đạt được an lạc thực sự cho tâm hồn và đưa đến một cuộc sống hạnh phúc và có ích. Vipassana có nghĩa là “nhìn thấy sự việc đúng như thật”. Đây là một tiến trình hợp lý để thanh lọc tâm bằng cách tự quan sát. Phương pháp thiền cổ truyền này đã được Đức Phật Thích Ca truyền dạy hơn 2500 năm trước tại Ấn Độ như một phương thuốc chữa căn bệnh khổ chung cho tất cả, không mang tính tôn giáo hay tông phái. Hoặc an trú chánh niệm, nhìn cái hoa đã thấy đủ các yếu tố tạo thành cái hoa như ánh sáng, gió, nước...là một sự thật, nhưng cũng có tâm ý hành giả bị vọng niệm lạc dẫn lan man sang nhiều yếu tố khác như cuộc rong chơi an lạc với tâm hồn thanh thản.

Chủ đích là sự giải thoát mọi vướng bận cảm thọ, mong cầu, dùng tuệ tri hành pháp, tùy mỗi pháp hành ngắn dài, đơn giản hay phức tạp (mục đích cột cái vọng tưởng lan man) hành giả phải được hướng dẫn và kiểm soát chặt chẻ bởi một vị thầy dạt đạo hay một bậc minh sư nếu không là bậc Chánh biến tri.

Căn cơ chúng sanh vô cùng thì pháp môn cũng vô lượng. Hành giả đi trên lộ trình tâm linh luôn cảnh giác chính mình qua những người bạn ấm ma đồng hành cùng chúng ta từ vô thủy.

MINH MẪN 13/3/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2015(Xem: 24078)
Món quà để lại lúc lâm chung của một vị Thầy thuốc Trung y cao tuổi, thật quá tuyệt vời! Tổng cộng có 100 điều, mỗi điều đều rất cao thâm, nên cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, nó sẽ giúp bạn đề cao nhận thức đối với sức khỏe!
11/03/2015(Xem: 7987)
Chúng tôi về thăm Trúc Lâm Bảo Sơn, huyện Tóc Tiên, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vào cuối giờ chiều. Vùng đất nơi đây khá cằn cõi nhưng cây xanh thì rất nhiều. Đón chúng tôi là sư cô còn rất trẻ. Trà và mứt đủ loại được bày ra như một bữa tiệc. Hóa ra quý sư cô nơi đây sản xuất mứt, vừa để ăn, để tặng, vừa mang bán kiểm tiền kiến thiết chùa và giúp đời.
11/03/2015(Xem: 12700)
Đối với vạn vật trong cõi nhân gian, Phật giáo đều có sự quan sát thấu đáo, hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân có nhân lý, vật có vật lý, tình có tình lý, tâm có tâm lý. Trên thế gian bất kỳ sự vật gì cũng có cái “lý” riêng biệt của nó, địa lý phong thủy tất nhiên cũng có “nguyên lý” của nó.
06/03/2015(Xem: 7889)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt. Đêm đến, trời trong mây tịnh, vườn sau đón ngập ánh trăng, tạo một không gian huyền ảo lung linh. Đã không có những ngày xuân rực nắng, không có những đêm xuân ấm cúng tiếng đàn câu ca và những chung trà bằng hữu; nhưng chân tình của kẻ gần người xa, vẫn luôn tỏa sự nồng nàn, tha thiết. Cái gì thực thì còn mãi với thời gian thăm thẳm, vượt khỏi những cách ngăn của không gian vời vợi.
27/02/2015(Xem: 9209)
Con người sinh ra, họ khổ đau, rồi họ chết. Theo Anatole France, đó là điều mà kẻ uyên bác đã từng tóm lược về thân phận loài người. Mặt khác, một số nhà tư tưởng tự do nói rằng: "Con người là guồng máy nhỏ, cấu tạo bởi sự sắp xếp ngẫu nhiên của các nguyên tử và phát triển theo quá trình tiến hóa tự nhiên. Đau khổ không thể nào tránh khỏi trong cuộc đấu tranh của con người cho sự sống còn. Không có ý nghĩa nào khác hơn, cũng chẳng mục đích chi cao cả. Chết là sự tan rã của các phần tử hóa học; không còn gì tồn tại."
26/02/2015(Xem: 7203)
Đôi khi, tôi đọc kinh, và đôi khi đọc thơ. Thường là vào sáng sớm, hay giấc khuya, khi không gian tĩnh lặng. Từng chữ đọc lên trong tâm, đọc thầm lặng, nghe âm vang ngấm toàn thân. Nhấp một ngụm trà, để nghe chữ tan vào hồn. Trong lòng thanh thản, nhìn thấy từng chữ khởi lên trong tâm, nhìn thấy từng nghĩa trải trên trang giấy. Trong cái tịch lặng của đêm và cái âm vang của chữ trong tâm mình không còn biên giới – nơi đó, không gọi được là tịch hay động.
14/02/2015(Xem: 8097)
Người Phật tử là những con trai, con gái ngoan của Đức Phật. Một lẽ tất nhiên Ngài đã dạy cho chúng ta những kỹ năng cơ bản nhất để tránh những phiền muộn không mong muốn trong tình duyên.
07/02/2015(Xem: 12932)
Chùa tôi có khoảnh vườn nhỏ khoảng 100m2. Trước đây ai cho gì trồng nấy. Đi đâu thấy cây, cỏ, hoa lạ liền mua về dúi vào vườn rồi chăm sóc, rồi ngắm nghía, rồi thỏa thích. Ngày qua ngày cái vườn nhỏ xíu mà trăm cây giành khoe sắc.
03/02/2015(Xem: 12295)
Tôi là Phật tử, nhà tôi thờ Phật đã hơn 10 năm nay, bàn thờ có một bát hương thờ Phật và một bát hương thờ gia tiên. Cách đây vài tuần, có người bạn từ miền Bắc vào chơi và có hỏi bát hương nhà tôi đã được các thầy bốc chưa. Tôi trả lời, bát hương trên bàn thờ chỉ có tro sạch, ngoài ra không có gì cả.
03/02/2015(Xem: 11196)
Một phóng viên nhà báo đăng lên trang nhất kể rằng vào năm 2008, khi phóng viên và bạn mình đang ngồi ăn tối trong nhà hàng thì thấy một người đàn ông đứng ngoài hành lang của khách sạn. Họ nghĩ ông ấy đến một mình nên quyết định mời ông cùng ăn tối. Nhưng ông từ chối không ăn và nói rằng ông đang phải đi đến phòng tập thể dục.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]