Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bồ Tát Quán Thế Âm

13/03/201414:15(Xem: 11724)
Bồ Tát Quán Thế Âm

Bo_Tat_Quan_Am_1

BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Hạnh Cơ

“Sáng cho nguời thêm niềm vui, chiều giúp người bớt khổ.”,đó là một trong những lí do thiết yếu để đạo Phật có mặt ở thế gian. Bởi vậy, cho vui cứu khổđã trở thành một nhiệm vụ chánh yếu của mọi người tu học theo Phật pháp – dù xuất gia hay tại gia, ở bất cứ phương trời nào, bất cứ thời khắc quá hiện vị lai nào. Đặc biệt, đối với các hành giả phát tâm tu tập Bồ Tát Đạo, nhất là chư vị Đại Bồ Tát, thì cho vui cứu khổcòn là một trong những hạnh nguyện trọng đại, được thực hiện thường xuyên, không gián đoạn, không ngưng nghỉ. Vì vậy, trong trường hợp này, đạo Phật cũng được gọi là đạo Từ Bi, hay đạo Cứu Khổ, hoặc đạo Từ Bi Cứu Khổ. Trong các vị Đại Bồ Tát, hình ảnh cứu khổ tiêu biểu nhất, đó là đức Bồ Tát Quán Thế Âm. Phật tử Việt-nam, lòng tín ngưỡng đối với Ngài rất là mãnh liệt. Hình ảnh của Ngài thật vô cùng quen thuộc, gần gũi; hầu như trong tâm khảm của người Phật tử Việt-nam nào cũng in đậm hình ảnh đáng tôn kính của Ngài, bởi vì đã có vô số trường hợp người ta cảm nhận được sự linh ứng cứu độ của Ngài. Vậy nên, việc thờ kính Ngài, niệm danh hiệu Ngài, từ lâu đời, đã trở thành một trong các pháp môn tu tập quan yếu của Tăng tín đồ Phật giáo Việt-nam.

Đức tin của Phật tử chúng ta đối với Bồ Tát Quán Thế Âm tuy đã thâm sâu vững chắc, nhưng nhiều người có lẽ còn chưa biết rõ về Ngài. Vậy chúng tôi xin giới thiệu sau đây vài nét cụ thể về sự tích và công hạnh của Ngài.

A. DANH HIỆU “QUÁN THẾ ÂM”

Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm (dân gian Việt-nam thường quen gọi là Quan Âm). Với tâm nguyện đại bi, Ngài dùng tánh nghe viên thông để quán nghe tiếng kêu cầu của chúng sinh đau khổ mà thị hiện cứu độ, đó là ý nghĩa của danh hiệu “Quán Thế Âm”. Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn) nói: Chúng sinh bị khổ não, nếu nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bổ Tát Quán Thế Âm, Ngài liền quán sát âm thanh của họ mà cứu độ họ được thoát khổ; vì thế mà gọi là Quán Thế Âm. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, cách nay vô lượng vô số kiếp về đời quá khứ, từ thời đức Phật Quán Thế Âm tại thế độ sinh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng sở trường về pháp tu tam muội gọi là “nhĩ căn viên thông”, đầy đủ khả năng quán sát sâu rộng âm thanh kêu cầu của chúng sinh đau khổ, để hiện đến cứu độ. Cho nên trải qua bao nhiêu kiếp tu hành đạo Bồ-tát, cho đến hiện nay, Ngài vẫn giữ lấy danh hiệu của đức Phật kia Quán Thế Âmlàm tên của mình.

“Quán Thế Âm”là cách dịch cũ (trước thời đại pháp sư Huyền Trang); các nhà dịch kinh Trung-hoa từ pháp sư Huyền Trang (thế kỉ thứ 7 dương lịch) trở về sau, đã dịch danh hiệu của Ngài là Quán Thế Tự Tại– gọi tắt là Quán Tự Tại, với ý nghĩa rằng, Ngài quán sát thế gian để cho vui cứu khổ một cách tự tại, không bị bất cứ một thứ gì, một thế lực hay hoàn cảnh nào làm cho chướng ngại. Quán Tự Tạicũng có nghĩa là Ngài dùng trí tuệ bát nhã để quán sát và thấy rõ tất cả các pháp là hư huyễn, không có tự tánh, không chân thật, cho nên không còn bị vướng mắc vào bất cứ pháp nào, hoàn toàn giải thoát mọi khổ đau sinh tử.

Phật tử Việt-nam, với lòng tôn kính thiết tha, thường xưng niệm Ngài bằng một danh hiệu thật dài, và thật đầy đủ ý nghĩa: “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát”.

B. SỰ TÍCH BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Trong Kinh Bi Hoa, đức Phật Thích Ca có dạy: Vào thời quá khứ xa xôi, khi chưa xuất gia tu hành, có một kiếp đức Quán Thế Âm sinh làm một vị thái tử, tên là Bất Huyến, con trưởng của vua chuyển luân Vô Tránh Niệm, trị vì cả bốn châu thiên hạ của thế giới San-đề-lam. Lúc đó có đức Phật ra đời, hiệu là Bảo Tạng. Vua Vô Tránh Niệm phát tâm qui y Tam Bảo, đồng thời khuyến khích một ngàn vị thái tử con mình, cùng toàn thể quần thần đều qui y Tam Bảo. Đức vua phát tâm sắm sửa các thứ cần dùng hằng ngày như ẩm thực, thuốc men, y phục, giường nệm v.v... đem đến đạo tràng cúng dường lên Phật và chúng tăng suốt ba tháng; nguyện đem công đức ấy hồi hướng về đạo quả Vô thượng Bồ đề; liền được Phật Bảo Tạng thọ kí, vô số kiếp về sau sẽ thành Phật hiệu là Vô Lượng Thọ, giáo chủ thế giới An-lạc. Thái tử Bất Huyến cũng vâng lời phụ vương, hết lòng tin kính, sắm sửa lễ vật trân quí như vua cha, đem đến đạo tràng cúng dường lên Phật và chúng tăng suốt ba tháng. Nhờ nghe lời giảng giải của một vị đại thần thiện tri thức, thái tử tự nghĩ rằng: Bởi chúng sinh trong đời không gặp được những bậc hiền nhân khuyên dạy việc lánh dữ làm lành, chỉ gặp toàn những kẻ ác tâm xúi giục làm điều bất thiện, hủy báng Chánh Pháp, khinh bỉ Tam Bảo, ngập sâu tà kiến, khiến cho mất hết căn lành, không còn biết đến đạo đức là gì, nên phải chịu đày đọa trong ba dường dữ, không ngày giải thoát.

Nghĩ như thế xong, thái tử đến trước Phật, cung kính bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay con ở trước Thế Tôn và Thánh Chúng, xin nguyện rằng: Con nguyện đem công đức cúng dường Tam Bảo và những phước lành đã tu tập được, xin hồi hướng về đạo quả Vô thượng Bồ đề. Trong khi tu hành đạo Bồ-tát, con nguyện luôn luôn làm lợi lạc cho chúng sinh. Như có chúng sinh nào chịu nhiều điều khốn khổ, bị tù hãm trong hoàn cảnh tối tăm, cô đơn buồn rầu, không nơi nương tựa, không có người giúp đỡ, nếu chúng sinh ấy nghĩ đến và xưng niệm danh hiệu con, tức thì con dùng thiên nhĩ để lắng nghe, dùng thiên nhãn để quan sát, xem kẻ đau khổ kia đang ở chỗ nào, con hiện đến để cứu giúp cho họ thoát khổ được vui. Nếu không được như lời nguyện ấy thì con quyết sẽ không thành Phật. Bạch đức Thế Tôn! Nay con vì hết thảy chúng sinh mà phát lời nguyện lớn, tu học pháp xuất thế, chóng được tự giác tự lợi. Khi phụ vương con là Vô Tránh Niệm, trải hằng sa kiếp, chứng thành quả Phật, hiệu là Vô Lượng Thọ Như Lai, giáo chủ thế giới An-lạc; lại trải qua vô lượng kiếp, đức Phật ấy hóa độ chúng sinh xong rồi, liền nhập niết bàn, Chánh Pháp truyền lại, con ở trong ấy tu tập hạnh Bồ-tát, thường làm Phật sự. Đến khi Chánh Pháp của đức Phật ấy sắp diệt, hễ diệt vào đầu hôm, thì cuối đêm con sẽ thành Vô thượng Chánh giác. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi thọ kí cho con.”

Phật Bảo Tạng nghe những lời nguyện ấy, liền đặt hiệu cho thái tử Bất Huyến là Quán Thế Âm, và thọ kí cho thái tử, sau khi đức Phật Vô Lượng Thọ (tức Phật A Di Đà) nhập niết bàn, thế giới An-lạc (tức Cực-lạc) sẽ được đổi tên là Nhất-thiết-trân-bảo-sở-thành-tựu, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai, thọ mạng dài đến chín mươi sáu ức na do tha kiếp, sau khi nhập niết bàn, chánh pháp sẽ còn truyền đến sáu mươi ba ức kiếp.

Từ đó, trải qua hết kiếp này đến kiếp khác, ngài Quán Thế Âm đều giữ vững bản nguyện, tinh tấn tu hành hạnh Bồ-tát, cầu đạo Bồ-đề, cứu giúp chúng sinh đau khổ, không khi nào xao lãng hạnh nguyện đại bi. Hiện tại, vua Vô Tránh Niệm, do tu hành tinh tấn, công hạnh viên mãn, đã thành Phật ở thế giới Cực-lạc, hiệu là A Di Đà, cách nay đã mười kiếp (theo Kinh A Di Đà); còn đức Quán Thế Âm (tức thái tử Bất Huyến), công hạnh cũng tròn đầy, trở thành một vị Đại Bồ Tát, chứng đến bậc Đẳng-giác, cũng đang ở thế giới Cực-lạc hầu cận đức Phật A Di Đà, hằng ngày tiếp dẫn chúng sinh khắp mười phương đem về cõi ấy.

Trong KinhQuán Thế Âm Bồ Tát Đắc Đại Thế Bồ Tát Thọ Kícó nói: Trong vô lượng kiếp sau, đức Phật A Di Đà sẽ nhập niết bàn. Sau đó, đức Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương Như Lai, thay thế Phật A Di Đà nhiếp hóa chúng sinh.

Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Nicó ghi lời Phật dạy rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã thành Phật từ kiếp xa xưa, có danh hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nhưng vì lòng đại bi, muốn thành tựu đạo nghiệp cho tất cả chúng sinh, muốn cho chúng sinh được an vui, ngài thường thị hiện làm thân Bồ-tát...”

Trong nền văn học cổ điển Việt-nam có hai tác phẩm văn vần, viết về hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, rất được truyền tụng trong dân gian Việt-nam, mọi người đều kính ngưỡng thiết tha; đó là hai truyện Quán Âm Thị Kính Quán Âm Nam Hải.

Truyện Quán Âm Thị Kínhviết về một nàng con gái xinh đẹp ở nước Cao-li, tên Thị Kính, vì bị nghi oan có ý định giết chồng, không có cách gì giải tỏa được, bèn ngậm mối oan tình mà trở về nhà cha mẹ, rồi giả dạng nam nhi vào chùa xin tu hành; trở thành chú Kính Tâm. Nàng đã xa lánh trần tục, quên nỗi oan cũ, quyết tâm tu hành, tưởng được yên thân nơi chốn thiền môn; nhưng trớ trêu làm sao, nàng lại bị một cô gái khác tên Thị Mầu, để ý yêu thích! Cô gái này vốn tính trăng hoa, tư thông với chính người đầy tớ trai trong nhà, đến nỗi có mang; bị làng tra hỏi, cô bèn đổ oan cho Kính Tâm. “Chú” bị làng dùng đủ thứ cực hình tra khảo, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng. “Chú” không nhận tội, nhưng cũng nhất quyết giữ bí mật cái “phận gái” của mình. Thấy “chú” có thể bị tra tấn đến chết, sư cụ Trú Trì bèn xin nộp phạt cho làng để bảo lãnh “chú” về chùa. Về sau Thị Mầu sinh được một bé trai, chẳng biết giấu đi đâu, cô bèn mang bé lên chùa, bỏ trước cổng tam quan. Kính Tâm nghe tiếng trẻ con khóc ở ngoài cổng chùa, ra xem, thấy đứa bé, rất xót thương, nên bồng vào nuôi. Dù bị người làng dèm pha, nguyền rủa, Kính Tâm vẫn nhẫn nhục chịu đựng, không một lời minh oan biện bạch. Khi đứa bé lớn lên, cũng là lúc Kính Tâm kiệt sức. “Chú” biết mình sắp lìa đời, bèn viết bức di thư để lại cho cha mẹ, kể rõ hết sự tình oan khuất của mình. Sau khi nàng qua đời, sư cụ trú trì và mọi người làng mới biết nàng là gái, và bao nhiêu sự thật mới được phơi bày rõ ràng. Do tâm chí thành tinh tấn tu hành, do lòng từ bi bao la và đức nhẫn nhục kì vĩ, Kính Tâm đã công thành quả mãn, đắc đạo, được tôn hiệu là Phật Quán Âm.

Truyện Quán Âm Nam Hảikể chuyện một nàng công chúa tên Diệu Thiện, con vua Diệu Trang ở nước Hưng-lâm (thuộc lãnh thổ nước Ấn-độ ngày nay), sang nước Đại-Việt (tên xưa của Việt-nam) tu hành chứng quả; vì thường cư trú ở vùng biển nước Nam ta, nên được gọi là Quán Âm Nam Hải. Nguyên vua Diệu Trang có ba người con gái, đều xinh đẹp, hiền lành, hiếu thuận. Hai công chúa lớn đã vâng lệnh phụ vương đi lấy chồng, còn Diệu Thiện là công chúa út thì không muốn lập gia đình, mà quyết chí xuất gia tu hành để cứu giúp mọi người đang đau khổ. Nhà vua đã tìm mọi cách để cản trở việc xuất gia của cô con út, nhưng không thành công; nàng vẫn nhất quyết sống đời phạm hạnh trong một ngôi chùa, trở thành một vị ni cô mẫu mực. Thấy thế, nhà vua vô cùng tức giận, cho lệnh đốt ngôi chùa ấy; nhưng thình lình trơi mưa xối xả, dập tắt hết lửa, cứu sống mọi người trong chùa. Nhà vua lại sai quân lính bắt ni cô Diệu Thiện đem xử chém. Khi lưỡi gươm của đao phủ chém gần đến cổ ni cô, thì bất chợt một con mãnh hổ xuất hiện, cõng ni cô chạy mất! Con mãnh hổ cõng ni cô Diệu Thiện chạy vượt qua bao núi non hiểm trở, sang đến lãnh thổ nước Đại-Việt, đặt ni cô xuống đất, rồi bỏ đi. Sau đó ni cô gặp được vị hoàng tử con vua đầu nhà Lí (thế kỉ 11 TL), biết ni cô quyết tâm tu hành, ông giúp ni cô đến động Hương-tích (tức núi Hương-sơn, tỉnh Hà-đông, Bắc-Việt) để ẩn tu. Sau nhiều năm tu hành tinh tấn, ni cô Diệu Thiện bừng sáng trí tuệ, đắc thành đạo quả, có sức nghe mầu nhiệm, nghe được nhiều tiếng kêu thương của mọi người, dù ở thật xa, cho nên ni cô thường xuống núi để cứu giúp và hóa độ mọi người. Tiếng đồn vang khắp chốn nơi, dân gian kính ngưỡng thiết tha, đều tôn xưng ni cô là Bồ Tát Quán Âm, hoặc gọi là Phật Bà Quán Âm Hương-tích.

C. TRÚ XỨ của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Theo Kinh Tân Hoa Nghiêmghi chép, đức Bồ Tát Quán Thế Âm cư trú tại núi Bổ-đà-lạc-ca (hoặc gọi là Phổ-đà-lạc-già - tiếng Phạn là Potala), một hải đảo nhỏ ở gần bờ biển Nam của nước Ấn-độ; chính tại nơi đây, Thiện Tài Đồng Tử đã đến tham bái Ngài để cầu đạo Bồ-đề.

Theo các kinh Đại A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Thế Âm Thọ Kí,thì Bồ Tát Quán Thế Âm thường cư trú tại thế giới Cực-lạc, cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí, là hai vị hầu cận và trợ thủ đắc lực nhất của đức Phật A Di Đà trong việc tiếp dẫn chúng sinh ở cõi Ta-bà về thế giới Cực-lạc. Bởi vậy, tông Tịnh Độ đã tôn xưng đức Phật A Di Đà và hai vị Bồ Tát này là “Tây Phương Tam Thánh”.

Một hòn đảo nhỏ ở gần bờ biển phía Đông của huyện Định-hải, tỉnh Triết-giang, Trung-quốc, cũng được đặt tên là núi Phổ-đà; và theo tín ngưỡng từ lâu đời, người Phật tử Trung-hoa đã coi đó là đạo tràng của đức Bồ Tát Quán Thế Âm trên đất nước Trung-quốc.

Theo tín ngưỡng của Phật tử Việt-nam, đức Bồ Tát Quán Thế Âm, qua hóa thân là công chúa Diệu Thiện (trong truyện Quán Âm Nam Hảivừa ghi trên), đã tu hành đắc đạo tại động núi Hương-tích, miền Bắc Việt-nam; và Ngài thường xuyên có mặt trêm biển Nam-hải (Việt-nam) để cứu độ chúng sinh.

Phật giáo Tây-tạng thì tin rằng, đức giáo chủ của họ (tức vị Đạt-lai Lạt-ma) chính là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Vì vậy mà cung điện của vị Đạt-lai Lạt-ma (cũng đồng thời là quốc vương nước Tây-tạng) đã được xây cất vô cùng nguy nga hùng tráng, được đặt tên là điện Potala; và đức Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn được dân chúng xứ này sùng kính đặc biệt.

D. HẠNH NGUYỆN và OAI THẦN của BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM

Hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn vô biên. Qua lời giới thiệu của đức Phật Thích Ca (trongKinh Đại Bi), đức Bồ Tát Quán Thế Âm là một vị cổ Phật, đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước –hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai,– vì hạnh nguyện đại bi muốn cứu độ chúng sinh, nên Ngài hiện thân làm Bồ-tát. Ở trước đức Phật và hội chúng đông vô lượng, chính Bồ Tát Quán Thế Âm đã nói thần chú “Đại Bi Tâm Đà La Ni”. Trước khi nói thần chú này, Ngài bạch Phật rằng: “Con nói thần chú này vì muốn cho chúng sinh được an vui, dứt tất cả bệnh hoạn; được sống lâu, giàu có, diệt trừ tất cả nghiệp ác, khỏi các chướng nạn, tiêu tan mọi sợ hãi; được tăng trưởng mọi công đức lành, mau chóng đầy đủ mọi điều mong cầu.”Ngài cũng tự kể rằng, trong vô lượng kiếp về trước, có đức Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ ra đời, lúc đó Ngài vừa chứng bậc Bát-địa Bồ-tát, liền phát nguyện trước đức Phật kia rằng: “Nếu về sau con có thể thành tựu được những việc lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh, thì ngay bây giờ đây, nơi thân con hãy sinh đủ ngàn tay ngàn mắt!” Nói lời ấy xong thì thân thể Ngài liền hiện đủ ngàn tay, ngàn mắt.

Trong Kinh Bi Hoa, Ngài từng phát nguyện trước đức Phật Bảo Tạng rằng: “Trong khi tu hành đạo Bồ-tát, con nguyện luôn luôn làm lợi lạc cho chúng sinh. Như có chúng sinh nào chịu nhiều điều khốn khổ, bị tù hãm trong hoàn cảnh tối tăm, cô đơn buồn rầu, không nơi nương tựa, không có người giúp đỡ, nếu chúng sinh ấy nghĩ đến và xưng niệm danh hiệu con, tức thì con dùng thiên nhĩ để lắng nghe, dùng thiên nhãn để quan sát, xem kẻ đau khổ kia đang ở chỗ nào, con hiện đến để cứu giúp cho họ thoát khổ được vui.”

Theo phẩm “Phổ Môn”trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hễ ai thờ Ngài thì đều được phước đức lớn; ai cầu nguyện và xưng niệm danh hiệu Ngài, đều được Ngài chở che và cứu giúp thoát khỏi mọi hoàn cảnh đau khổ, hiểm nguy.

Trong Kinh Địa Tạng, đức Phật có khen ngợi Bồ Tát Quán Thế Âm rằng: “Ông có nhân duyên lớn đối với thế giới Ta-bà này. Các hàng trời, người, rồng, thần, quỉ, cho đến các chúng sinh đau khổ trong khắp nẻo luân hồi, hễ nghe danh hiệu ông, thấy hình ảnh ông, mà kính ngưỡng, tán thán, thì các chúng sinh ấy đều được hưởng phước báo an vui mầu nhiệm nơi các cõi Trời và Người, đối với đạo quả Bồ-đề thì không bị thối chuyển, và đến khi nhân duyên thành thục thì được gặp chư Phật thọ kí cho.”

Hạnh nguyện của đức Bồ Tát Quán Thế Âm đã vô cùng rộng lớn như vậy, mà oai thần diệu dụng cứu độ chúng sinh của Ngài lại càng không thể nghĩ bàn. Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vươngnói rằng, từ vô lượng vô số kiếp xa xưa (trong những thời đại của các đức Phật Tì Bà Thi, Thi Khí, Tì Xá Phù v.v...), khi đức Thích Ca Mâu Ni còn đang tu tập hạnh Bồ-tát, Ngài đã từng nhiều lần nghe biết và thán phục công đức cũng như sức oai thần lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong lúc đức Phật sắp bắt đầu nói kinh này ở tinh xá Kì-viên (thành Xá-vệ), thì đức Quán Thế Âm đang ở đại địa ngục A-tì để cứu độ chúng sinh đau khổ; và lúc đó, từ trong địa ngục ấy, ánh hào quang rực rỡ của đức Bồ Tát đã rọi lên chiếu sáng cả khu vườn Cấp-cô-độc, làm cho quang cảnh Kì-viên tăng phần trang nghiêm vi diệu. Đồng thời đức Bồ Tát cũng cứu độ vô số ngạ-quỉ được vãng sinh về thế giới Cực-lạc, trở thành những vị Bồ Tát bất thối ở cõi Tây-phương. Kinh này cũng chép rằng, có một lúc Bồ Tát Quán Thế Âm đến thành Ba-la-nại, bấy giờ thành phố này rất dơ bẩn, vô số trăm ngàn vạn loại sâu bọ dòi trùng chen chúc. Ngài phát tâm từ bi, muốn cứu độ các chúng sinh dơ bẩn kia. Ngài liền hóa thân thành một con ong, bay tới chỗ ấy, trong tiếng kêu vo-ve có phát ra tiếng “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”.Các loài sâu bọ dòi trùng nghe tiếng ấy cũng đều bắt chước kêu theo như thế: “Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng”; tức thì tất cả đều mạng chung và vãng sinh về thế giới Cực-lạc.

Trong Kinh Đại Bi, đức Phật bảo tôn giả A Nan rằng: “Bồ Tát Quán Thế Âm thần thông oai lực không thể nghĩ bàn. Vị Bồ Tát ấy có ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các điều mong cầu của chúng sinh (như cầu được giàu sang, được khỏi bệnh, được yên ổn, được gặp bạn lành, thoát khỏi ách nạn, hàng phục ma quỉ, quyến thuộc hòa thuận, được thân cận Tam Bảo, được vững tâm bồ-đề, v.v...). Đó là do tâm đại bi của vị Bồ Tát ấy hóa hiện.”Kinh này còn nói, vì tâm đại bi cứu độ chúng sinh mà đức Bồ Tát Quán Thế Âm nói ra thần chú “Đại Bi”. Chính Ngài đã bạch lên đức Phật về sức oai thần của thần chú ấy: “Nếu chúng sinh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường dữ, không được sinh về các cõi Phật, con thề không thành Chánh-giác. Những người tụng trì thần chú này, mọi điều mong cầu đều được toại nguyện – ngoại trừ mong cầu những điều bất thiện. Ai tụng trì thần chú này với lòng tin tưởng chân thành, đều được chư Phật mười phương chứng minh hộ niệm, cho nên mọi tội lỗi nặng nhẹ, kể cả trọng tội ngũ nghịch, cũng đều được tiêu trừ...”

Trong Kinh Pháp Hoa(phẩm Phổ Môn), sức oai thần diệu dụng cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm còn được đức Phật chỉ dạy cho chúng ta thấy một cách cụ thể:

- Ái dục, sân hận và si mê là ba loại phiền não độc hại nhất từng nhận chìm chúng sinh trong biển sinh tử luân hồi từ vô thỉ đến nay, nhưng nếu ai bị nhiều nỗi đau khổ hành hạ vì tâm ái dục quá nhiều, hoặc vì tâm sân hận quá cao, hoặc vì tâm si mê quá nặng; mà được phước duyên nghe được danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, rồi thành tâm trì niệm danh hiệu Ngài, sẽ được Ngài cứu độ cho cởi bỏ được ba loại phiền não độc hại ấy.

- Trong tất cả các trường hợp bị tai nạn, nếu thành tâm xưng niệm danh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm, do “sức niệm Quán Âm”,liền được thoát khỏi tai nạn – mà điển hình là bảy loại tai nạn: nạn lửa, nạn nước, nạn gió, nạn dao gậy, nạn gông cùm, nạn giặc cướp, nạn ác quỉ.

- Một cách tổng quát, oai thần diệu dụng cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm lớn lao không thể nghĩ bàn. Người trì niệm danh hiệu của Ngài sẽ được vô lượng vô biên phước đức; chỉ cần chí thành niệm danh hiệu và cung kính lễ bái cúng dường Ngài một lần trong đời, thì phước đức ấy cũng sánh bằng với người trọn đời niệm danh hiệu và lễ bái cúng dường sáu mươi hai ức hằng sa chư vị Bồ Tát khác trong mười phương.

- Do oai thần diệu dụng rộng lớn như thế, đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường xuyên có mặt ở thế giới Ta-bà, bằng đủ mọi loại thân hình thị hiện (từ thánh nhân cho đến trời, người, cùng 8 bộ long thần), để cứu độ rộng khắp mọi chúng sinh đau khổ. Trong phẩm “Phổ Môn”này, đức Phật đã kể ra 32 hiện thân như thế của Bồ Tát Quán Thế Âm, đó là thân Phật, thân Phật Bích-chi (Kinh Thủ Lăng Nghiêm thì kể làm hai thân: Độc-giác và Duyên-giác), thân Thanh-văn (3 loại thân thánh nhân); các thân trời Phạm Vương, trời Đế Thích, trời Tự Tại, trời Đại Tự Tại, Đại tướng quân của trời Đế Thích, trời Tì Sa Môn (6 loại thân trời); các thân quốc vương, trưởng giả, cư sĩ, quan lại, bà la môn, tì kheo, tì kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, phụ nữ, đồng nam, đồng nữ (12 loại thân người); các thân thiên, long, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, thân người nói chung, thân các loài phi-nhân khác, thân thần cầm chày kim cang (11 loại thân nhân và phi nhân). Thật ra, chúng sinh thì nhiều vô lượng, nỗi đau khổ của chúng sinh thì vô biên, cho nên thân ứng hóa của Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong thế gian cũng vô biên vô lượng; sự liệt kê 32 (hoặc 33) thân ở trên chỉ mang ý nghĩa tượng trưng mà thôi.

Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, ngoài 32 ứng thân như trên (liệt kê có khác đôi chút), đức Bồ Tát Quán Thế Âm còn thành tựu được 14 năng lực vô úy; nhờ đó mà “tất cả chúng sinh trong mười phương, những ai đang bị khổ nạn, nếu thành tâm xưng niệm danh hiệu Ngài, liền được thoát khỏi các khổ nạn; dù vào hầm lửa lớn, lửa không đốt cháy được; dù bị rớt xuống nước, nước không nhận chìm được; dù vào nơi ác quỉ, ác quỉ không hại được; dù gặp nạn đao kiếm, đao kiến liền bị gẫy; v.v...”Vì thế cho nên trong Kinh Pháp Hoa(phẩm Phổ Môn), Ngài được gọi là “bậc bố thí đức tính không sợ hãi”.

*

* *

Nói tóm lại, đức từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm rộng lớn vô biên, hạnh nguyện cứu độ chúng sinh của Ngài bao la vô tận, và oai thần diệu dụng cứu độ của Ngài thật không thể nghĩ bàn. Vì tình thương là đức tính tiêu biểu của Ngài, cho nên ở các nước Á-đông, người Phật tử thường tôn thờ Ngài bằng hình ảnh một bà Mẹ hiền; vì qua hình ảnh đó, họ mới cảm nhận được trọn vẹn niềm thân thương ấm cúng, sự đùm bọc che chở của Ngài.

Tất cả hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát Quán Thế Âm được đặt trên nền tảng tâm đại bi. Bi tâm ấy hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, bình đẳng. Vì thế, bất cứ ở đâu, lúc nào, hễ có chúng sinh đau khổ là liền có Ngài thị hiện để cứu độ; và cũng vì thế mà sự cứu độ của Ngài luôn luôn được thi thiết trên nguyên lí “cảm ứng”– nghĩa là có cảm tất có ứng. Những người có lòng tin tưởng vững chắc nơi Ngài, thời thời thờ kính Ngài, mỗi khi có điều kêu cầu (cảm)liền được Ngài cứu độ (ứng)đã đành; đến như những người xưa nay chưa từng tin tưởng và thờ kính Ngài (như người ngoại đạo chẳng hạn), trong trường hợp nguy hiểm khẩn cấp, bỗng dưng được biết và chí thành xưng niệm danh hiệu Ngài để cầu xin cứu độ, tức khắc họ được Ngài cứu độ. Thậm chí, những kẻ suốt đời làm ác, phỉ báng Tam Bảo, phá hoại Phật pháp, rồi trong một hoàn cảnh nguy khốn, quá sợ hãi, bỗng dưng nhớ được danh hiệu Ngài, chí thành xưng niệm, kêu cầu cứu độ, cũng tức khắc được Ngài cứu độ! Có điều nên biết, là chúng ta không thể nào hiểu biết được sự cứu độ của Ngài, vì nó hoàn toàn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta; chúng ta chỉ cảm nhận được bằng trực giác rằng, chúng ta “đã được Ngài cứu độ”mà thôi – hạnh phúc riêng ai nấy biết.

Phật tử chúng ta không những trọn lòng tín ngưỡng đức Bồ Tát Quán Thế Âm, mà còn nên tu tập theo hạnh đại bi của Ngài, làm cho công hạnh độ sinh của Ngài được thể hiện ngay nơi mỗi người Phật tử chúng ta. Con người hiện nay ngày càng tàn ác; càng văn minh tiến bộ về vật chất thì càng dơ bẩn, thụt lùi về tâm linh. Bởi vậy, những khổ nạn mà con người trên thế giới phải gánh chịu do thiên tai, do chiến tranh, do lừa lọc, do cướp bóc, do bạo hành, do đâm chém bắn giết, v.v..., cứ xảy ra không những hằng ngày, hằng giờ, mà phải nói là hằng phút, hằng giây. Số chúng sinh đau khổ quá nhiều, dù chúng ta cũng thấy có xuất hiện không biết bào nhiêu tấm lòng nhân ái, nhường cơm xẻ áo, trợ giúp kẻ khốn cùng, dùng lời từ ái để xoa diệu phần nào nỗi đau thương thống khổ cho người bất hạnh, nhưng vẫn không làm sao vơi hết khổ đau được! Người Phật tử thấy rõ tình trạng đó, hãy cùng khuyến tấn nhau thời thời sống với tâm từ bi, không tham lam mà tinh tấn bố thí; không hận thù mà hỉ xả và yêu thương người; nghe nơi nào cần giứp đỡ liền tùy khả năng mà ra tay tế độ. Đó chính là hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm. Một triệu người Phật tử sống đời sống như thế, là một triệu hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm trong cõi đời đau khổ này!

Sáng cho người thêm niềm vui; chiều giúp người bớt khổ.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/07/2021(Xem: 4908)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Thiện hữu & quí vị hảo tâm. Vào ngày Thứ Bảy (June 12) vừa qua, được sự cho phép của chính quyền địa phương làng Durgagar và Armoba Village Bihar India, nhóm Từ thiện Bodhgaya Heart chúng con, chúng tôi đã tiếp tục hành trình cứu trợ thực phẩm cho dân nghèo mùa Dịch covid. Xin mời chư vị xem qua một vài hình ảnh tường trình.. Buổi phát quà cứu trợ cho 358 căn hộ tại 2 ngôi làng cách Bồ đề Đạo Tràng chừng 9 cây số.
03/07/2021(Xem: 6254)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê, Ngài giữ trong tim một bộ kinh biểu tượng của việc thấy tất cả mọi thứ như chúng là, Người dạy trong sáu mươi cách, với lòng từ bi yêu thương của một từ thân với đứa con duy nhất, Đến tất cả các tạo vật bị giam trong tù ngục của luân hồi, Bối rối trong bóng tối của si mê, tràn ngập bởi khổ đau của họ.
03/07/2021(Xem: 17048)
Vào thời đại khủng hoảng niềm tin của tất cả tôn giáo, lòng người càng lúc hồi hộp bất an, giáo lý đức Thích Ca Mâu Ni như mặt trời chiều xuống bóng hoàng hôn ,Mật Tông Kim Cang Thừa như ngọn đèn sắp tắt, chỉ còn lại những bộ đại tạng kinh phủ đầy bụi trên những kệ kinh, nằm bất tỉnh không ai hỏi thăm trong những tu viên,viện bảo tàng cô đơn thiếu bóng người. Cuốn sách Mật Tông Kim Cang Thừa Chú Giải Toàn Thư Tập Hai, là sự trình bày và phô diễn mật nghĩa thậm thâm của Đại Phật Đảnh Lăng Nghiêm đà la ni , Bát Đại Kim Cang Thần Kinh và các phụ bản vô thượng du già. Là sự trợ duyên cho những ai, đã có gieo hạt giống pháp môn này, có thể khai hoa kết trái thành tựu sự tu tập giải thoát. Linh Quang từ nhỏ xuất gia tu học , tầm sư học đạo, và đi du học nhiều nước, nên trong đầu nhiều ngôn ngữ lộn qua lộn lại, bây giờ Tiếng Việt cũng quên dần,chính tả viết sai nhiều lắm, nên quý vị thông cảm bỏ qua những lỗi lầm về câu văn từ ngữ.
01/07/2021(Xem: 4070)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu, vi diệu mà Chư Phật trao truyền lại cho những ai đủ tín tâm thọ nhận. Pháp-bảo được lưu truyền đến nay, vẫn sáng ngời toả rạng lưu ly qua bao thăng trầm của thế sự vô thường, với tâm nguyện hoằng truyền Chánh Pháp của các bậc minh sư, tuỳ căn cơ chúng sanh mỗi thời mà soạn dịch. Một, trong những bổn kinh Diệu Pháp Liên Hoa thường được trì tụng tại các tự viện là bổn cố đại lão Hoà Thượng Thích Trí Tịnh biên soạn, hoàn tất với 557 trang, gồm 7 quyển, chia thành 28 phẩm , mỗi phẩm đầy đủ văn kinh và thi kệ. Cũng do nhu cầu và phương tiện tu học của Phật tử mà Hoà Thượng Thích Trí Quảng cũng đã lược soạn Diệu Pháp Liên Hoa Kinh thành Bổn Môn Pháp Hoa Kinh để Phật tử tại các Đạo Tràng Pháp Hoa có thể hàng ngày trì tụng mà không bị gián đoạn vì không đủ thời gian. Bổn Môn Pháp Hoa Kinh được Hoà Thượng trân trọng biên soạn, cô đ
29/06/2021(Xem: 6586)
Kính Pháp Sư Sướng Hoài, tôi tu sĩ Thích Thắng Hoan đọc qua tác phẩm PHẬT HỌC VĂN TẬP của ngài viết nhận thấy ngài một nhà bác học uyên thâm Phật giáo nắm vững mọi tư tưởng cao siêu của cácphái, các tông giáo cả trong đạo lẫn ngoài đời. Toàn bộ tác phẩm của ngài đều xây dựng vững chắc trên lãnh vực biện chứng pháp của Nhân Minh Luận. Nội dung tác phẩm trong đó, mỗi một chủ đề ngài biện chứng bằng những lãnh vực mặt phải mặt trái, chiều sâu chiều cạn, mặt phủ định, mặt xác định,cuối cùng để làm sáng tỏ vấn đề bằng kết luận. Tôi vô cùng kính nể kiến thức của ngài.
29/06/2021(Xem: 6805)
Phật giáo dùng từ bi làm căn bản, xem trọng giới sát nên thực hành phóngs anh.Từ nghĩa là trao cho khoái lạc; Bi nghĩa là san bằng khổ não. Người đời rất quý mến thân mạng, chồng vợ con cháu, tiền của, nhưng từ chối mỗi người không thể che chở bao gồm chung cả. Giả như nếu bất hạnh gặp gian nguy, vì cứu thân mình, thà bỏ tất cả vật ngoài thân, để cầu được sinh tồn riêng mình.Con người đã tham sống sợ chết, sanh mạng con vật nhỏ bé như con muỗi, con ve, sâu bọ, kiến mối, còn biết tránh chạy cái chết cầu mong được sống, thì các động vật khác chúng nó sao lại không như thế?
28/06/2021(Xem: 4405)
Trước khi nói đến tinh thần Trung đạo của Phật giáo, thiết nghĩ cần phân biệt sự khác nhau giữa tinh thần “Trung dung” và “Trung đạo.” “Trung dung” là những thiên trong Kinh Lễ. Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra Mục đích của sách Trung Dung là giúp con người hiểu được đạo “Trung dung” để đạt đến một trình độ đạo đức cao hơn. Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử. Cũng theo tinh thần “Trung dung” như thế, không thể có một thái độ “Trung dung” cố định; tùy thời tùy thế mà linh hoạt. “Trung dung” với ý nghĩa trên là dung hợp, quân bình giữa thái quá và bất cập. Ví dụ : thuyết Duy Vật chủ trương tranh đấu; thuyết Duy Tâm của Đức Khổng Tử, chủ trương điều hòa hai yếu tố cực đoan bằng lẽ Trung Dung.
27/06/2021(Xem: 8914)
Pháp Học và Pháp Hành Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành. Vậy pháp học là gì ? Là cả đời tu chỉ chuyên về việc nghiên cứu, học tập kinh điển, xem các luận bản... để biết được hết Tam tạng kinh điển ( Kinh, Luật, Luận ), nhiều vị còn phiên dịch kinh điển, hay viết ra nhiều bộ luận dựa trên kiến thức, sự hiểu biết đã tích lũy. Nhưng tâm thật sự chứng ngộ, hay đạt đạo thì có thể chưa, chỉ hiểu, chứ chưa thực chứng. ( Còn số vị mà chuyên về pháp học nhưng tâm đã giác ngộ thì rất hiếm có, thời nay càng vô cùng hiếm ).
27/06/2021(Xem: 6035)
- Kính thưa chư Tôn đức, chư Pháp hữu & quí vị hảo tâm. Với tâm niệm hộ trì chư Tôn đức Tăng già, các bậc tu hành nơi đất Phật trong lúc nhiều khó khăn do Dịch covid đang nhiễu nhương, chúng con, chúng tôi đã thực hiện hai buổi cúng dường tịnh tài, tịnh vật và một ít nhu yếu phẩm đến chư Tăng Ni thuộc truyền thống Phật giáo Kim Cương Thừa Tibet tại Dharamsala, các vị Ẩn sỹ trên đỉnh Triund Himachal, cũng như các vị Tăng Ni VN hiện đang theo học PG Mật Tông tại Dharamsala India (19 vị). Sư cô Thích nữ Huệ Thảo đã thừa hành Phật sự này và đã cúng dường tất cả là 245 vị tu sỹ, trong đó có 19 vị tránh tiếp xúc đám đông nên đã nhận chuyển vào tài khoản cá nhân từ Sư cô Huệ Thảo, một số vị vì bịnh trạng đã nhờ bạn đồng tu nhận dùm, mỗi vị thọ nhận 1500INR kèm với một số tịnh vật cúng dường.
26/06/2021(Xem: 16548)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]