Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát

12/03/201408:34(Xem: 28438)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát



bo tat quan am
ĐẠI BI SÁM PHÁP

Tu Viện Quảng Đức  ấn tống 2005

Thich Nguyen Tang
Giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng


 


----o0o----

 

1.    Thanh tịnh Đạo tràng:

 Hành giả dâng hương xong, quì trước bàn Phật, đồng tụng:

TỊNH PHÁP-GIỚI CHƠN-NGÔN: Án lam. (21 lần)

TỊNH TAM-NGHIỆP CHƠN-NGÔN: Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN:Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hộc. (3 lần)
 
2. Cúng dường tâm hương:


Hương thơm giăng bủa

Thánh đức tỏ tường
Bồ đề tâm rộng chẳng suy lường
Tùy chỗ phóng hào quang
Lành tốt phi thường
Dâng cúng Pháp Trung Vương.
Nam mô Hương Cúng Dường Bồ tát. (3 lần)

3. Tán dương Bồ tát Quán Âm:


Kính lạy đời quá khứ

Chánh Pháp Minh Như Lai
Chính là đời hiện nay
Quán Thế Âm Bồ tát

Bậc thành công đức diệu
Dũ lòng đại từ bi
Nơi trong một thân tâm
Hiện ra ngàn tay mắt

Soi thấy khắp pháp giới
Hộ trì các chúng sanh
Khiến phát lòng đạo sâu
Dạy trì chú Viên Mãn

Cho xa lìa đường ác
Được sanh trước Như Lai
Những tội nặng vô gián
Cùng bịnh ác lâm thân

Khó nỗi cứu vớt được
Cũng đều khiến tiêu trừ
Các tam muội, biện tài
Sự mong cầu hiện tại

Đều cho được thành tựu
Quyết định chẳng nghi sai
Khiến mau được ba thừa
Và sớm lên quả Phật

Sức oai thần, công đức
Khen ngợi chẳng hay cùng
Cho nên con một lòng
Qui mạng và đảnh lễ.

4. Đảnh lễ:


1. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế tôn (1 lạy)
2. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Thế tôn (1 lạy)
3. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng ức kiếp Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Thế tôn (1 lạy)
4. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ cửu thập cửu ức hằng hà sa chư Phật Thế tôn (1 lạy)
5. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quá khứ vô lượng kiếp Chánh Pháp Minh Thế tôn (1 lạy)
6. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
7. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hiền kiếp thiên Phật, tam thế nhứt thiết chư Phật Thế tôn (1 lạy)
8. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm đại đà la ni thần diệu chương cú (3 lần)
9. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Quán Âm sở thuyết chư đà la ni, cập thập phương tam thế nhứt thiết tôn Pháp (1 lạy)
10. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thiên thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi Quán Thế Âm Tự Tại Bồ tát ma ha tát (3 lần)
11. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
12. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Tổng Trì Vương Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
13. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Nhựt Quang Bồ tát, Nguyệt Quang Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
14. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Bảo Vương Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
15. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Hoa Nghiêm Bồ tát, Đại Trang Nghiêm Bồ tát, Bảo Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
16. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Đức Tạng Bồ tát, Kim Cang Tạng Bồ tát, Hư Không Tạng Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
17. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Di Lặc Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
18. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Thập phương tham thế nhứt thế Bồ tát ma ha tát (1 lạy)
19. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Ma ha Ca Diếp tôn giả, vô lượng vô số đại Thanh văn Tăng (1 lạy)
20. Nhất Tâm Đảnh Lễ Nam mô Xiển Thiên Thai giáo quán Tứ Minh tôn giả, Pháp Trí đại sư (1 lạy)
21. Nhứt tâm đại vị Thiện Tra phạm ma, Cù Bà Dà thiên tử, Hộ Thế tứ vương, Thiên Long bát bộ, Đồng Mục thiên nữ, Hư Không thần, Giảng Hải thần, Tuyền Nguyên thần, Hà Chiểu thần, Dược Thảo Thọ Lâm thần, Xá Trạch thần, Thủy thần, Hỏa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Địa thần, Cung Điện thần, tinh thủ hộ trì chú nhứt thiết thiên, long, quỉ, thần, cập các quyến thuộc, đảnh lễ Tam bảo. (1 lạy)

5. Hành giả Phát Nguyện:


Kinh dạy: “Nếu có vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di hay đồng nam đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau biết tất cả pháp.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được mắt trí huệ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau độ các chúng sanh.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được phương tiện khéo.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau lên thuyền Bát nhã.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm được qua biển khổ.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau được đạo giới định.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm lên non Niết bàn.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con mau về nhà vô vi.”

“Nam mô đại bi Quán Thế Âm
Nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.

“Nếu con hướng về nơi non đao,
Non đao tức thời liền sụp đổ.”

“Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
Nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.”

“Nếu con hướng về Địa ngục,
Địa ngục liền tự mau tiêu tan.”

“Nếu con hướng về loài Ngạ quỉ,
Ngạ quỉ liền được tự no đủ.”

“Nếu con hướng về chúng Tu la,
Tu la tâm ác tự điều phục.”

“Nếu con hướng về các Súc sanh,
Súc sanh tự được trí huệ lớn.”

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát. (10 lần)
Nam mô A Di Đà Phật. (10 lần)

6. Công năng thần diệu của chú Viên Mãn Đại Bi:


Quán Thế Âm Bồ tát lại bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi, mà còn bị đọa vào ba đường ác, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không sanh về các cõi Phật, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài, con thề không thành chánh giác.”

“Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà la ni.”

7. Bồ Tát thuyết chú:


Khi đức Quán Thế Âm nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, đối với chúng sanh khởi lòng từ bi, nở mặt mỉm cười, nói chương cú mầu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi tâm đà la ni rằng:


Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da.
Nam-mô a rị da
Bø lô yết đế, thước bát ra da
Bồ-đề tát đỏa bà da
Ma ha tát đỏa bà da
Ma ha ca lô ni ca da
Án. Tát bàn ra phạt duệ
Số đát na đát tỏa
Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông
A rị da, bà lô kiết đế
Thất Phật ra lăng đà bà
Nam-mô na ra cẩn trì
Hê rị ma ha bàn đa sa mế
Tát bà a tha đậu du bằng
A thệ dựng
Tát bà tát đa
Na ma bà dà
Ma phạt đạt đậu
Đát điệt tha
Án a bà lô hê
Lô ca đế
Ca ra đế
Di hê rị
Ma ha bồ-đề tát đỏa
Tát bà tát bà
Ma ra ma ra
Ma hê ma hê, rị đà dựng
Cu lô cu lô kiết mông
Độ lô độ lô, phạt xà da đế
Ma ha phạt xà da đế
Đà ra đà ra
Địa rị ni
Thất Phật ra da
Giá ra giá ra
Mạ mạ phạt ma ra
Mục đế lệ
Y hê y hê
Thất na thất na
A ra sâm Phật ra xá-lợi
Phạt sa phạt sâm
Phật ra xá da
Hô lô hô lô ma ra
Hô lô hô lô hê rị
Ta ra ta ra
Tất rị tất rị
Tô rô tô rô
Bồ-đề dạ bồ-đề dạ
Bồ-đà dạ, bồ-đà dạ
Di đế rị dạ
Na ra cẩn trì
Địa rị sắc ni na
Ba dạ ma na ta bà ha
Tất đà dạ ta bà ha
Ma ha tất đà dạ, ta bà ha
Tất đà du nghệ
Thất bàn ra dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì ta bà ha
Ma ra na ra, ta bà ha
Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha
Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha
Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha
Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha
Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha

Nam-mô hắt ra đát na đa ra dạ da
Nam-mô a rị da
Bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha

Án tất điện đô, mạn đa ra
Bạt đà dạ, ta bà ha.
(tùy nguyện, mỗi lần nên tụng 3, 7, 9, 18, 21 hay 49 biến)

8. Nghe chú chứng quả:


Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất sáu phen biến động. Trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác. Mười phương chư Phật thảy đều vui mừng. Thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc.

Tất cả chúng hội đều được chứng quả.
Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn.
Hoặc có vị chứng quả Tư đà hàm.
Hoặc có vị chứng quả A na hàm.
Hoặc có vị chứng quả A la hán.

Hoặc có vị chứng được Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, Ngũ địa cho đến Thập địa. Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề.

9. Sám hối:


Chí tâm sám hối:

“Đệ tử chúng con, cùng pháp giới chúng sanh, hiện tiền một tâm vẫn đủ ngàn pháp, đều có sức thần cùng với trí sáng, trên sánh chư Phật, dưới đồng muôn loài.”

“Bởi niệm vô minh, che ánh sáng kia, nên đối cảnh hôn mê, khởi lòng chấp nhiễm, trong pháp bình đẳng, sanh tưởng ngã nhơn.”

“Lại do ái kiến làm gốc, thân miệng làm duyên, trong nẻo luân hồi, gây nên đủ tội: thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của Tăng kỳ, bức người tịnh hạnh, xâm tổn thường trụ, đồ vật thức ăn. Dù ngàn Phật ra đời, khó bề sám hối.”

“Những tội như thế, không lường không ngằn, khi bỏ báo thân, phải đọa tam đồ, chịu vô lượng khổ.”

“Lại trong đời này, do túc hiện chướng, hoặc bị các nghiệp, lửa phiền thiêu đốt, tật bịnh vây quanh, duyên ngoài lôi cuốn, tà ma quấy nhiễu, làm ngăn đạo pháp, khó nỗi tiến tu.”

“May gặp thần chú VIÊN MÃN ĐẠI BI, có thể mau trừ những tội như thế, cho nên nay con hết lòng tụng trì. CON NGUYỆN NƯƠNG VỀ QUÁN ÂM BÔÀTÁT, cùng Phật mười phương, phát tâm bồ đề, tu hạnh chân ngôn, cùng với chúng sanh, tỏ bày các tội, cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu trừ.”

“Nguyện đấng đại bi Quán Âm Bồ tát, ngàn tay nâng đỡ, ngàn mắt chiếu soi, khiến cho chúng con duyên chướng trong ngoài thảy đều dứt sạch; mình, người hạnh nguyện, đều được viên thành; mở tánh bản trí, dẹp trừ ma ngoại; ba nghiệp siêng cần, tu nhân Tịnh độ.”

“Nguyện cho chúng con khi bỏ thân này không vào đường khác, quyết được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật Di Đà. Rồi được thân cận học hỏi với đức Đại Bi Quán Âm, đủ pháp tổng trì, rộng độ chúng sanh, đồng thoát khổ luân, đều thành Phật đạo.”

10. Lễ tạ Tam Bảo:
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, xin quy mạng đảnh lễ Tam Bảo:


Nhứt tâm đảnh lễ Nam mô Thập phương thường trụ Tam Bảo. (3 lạy)

11. Tâm Kinh Bát nhã ba la mật đa:


Bồ tát Quán Tự Tại

khi quán chiếu thâm sâu
bát nhã ba la mật,
(tức diệu pháp trí độ),
bỗng soi thấu năm uẩn
đều không có tự tánh.
Thực chứng điều ấy xong,
Ngài vượt thoát tất cả
mọi khổ đau ách nạn.

Nghe đây Xá Lợi Tử:
Sắc chẳng khác gì không,
không chẳng khác gì sắc.
Sắc chính thực là không,
không chính thực là sắc.
Còn lại bốn uẩn kia
cũng đều như vậy cả.

Xá Lợi Tử nghe đây:
Thể mọi pháp đều không.
không sanh, cũng không diệt,
không nhơ, cũng không sạch,
không thêm, cũng không bớt.

Cho nên trong tánh không,
không có sắc, thọ, tưởng,
cũng không có hành, thức.
Không có nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt, thân, ý: sáu căn.
Không có sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp: sáu trần.
Không có mười tám giới:
Từ nhãn, đến ý thức.
không hề có vô minh,
không có hết vô minh,
cho đến không lão, tử.
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí, cũng không đắc.

Vì không có sở đắc,
khi một vị Bồ tát
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
tâm không còn chướng ngại.
Vì tâm không chướng ngại
nên không có sợ hãi,
xa lìa mọi điên đảo,
đạt niết bàn tuyệt đối.

Chư Phật trong ba đời
nương diệu pháp trí độ
(bát nhã ba la mật)
nên chứng vô thượng giác.

Vậy nên phải biết rằng:
bát nhã ba la mật
là linh chú đại thần,
là linh chú đại minh,
là linh chú vô thượng,
là linh chú siêu tuyệt,
chân thật không hư vọng,
có năng lực tiêu trừ
tất cả mọi khổ nạn.
Cho nên tôi muốn thuyết
câu thần chú trí độ
(bát nhã ba la mật.)

Nói xong đức Bồ tát
liền đọc thần chú rằng:
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần)

12. Tán dương A Di Đà Phật:

A-Di-Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân,
Bạch hào uyển-chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải

Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ-tát chúng diệc vô-biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Đà Phật.

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (30 hay 108 lần)
Nam-mô Đại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải chúng Bồ-tát. (3 lần)

13. Sám hối và phát nguyện

Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội-ác bởi lầm mê,
Đắm trong sanh-tử đã bao lần,
Nay đến trước đài Vô-thượng giác

Biển trần khổ lâu đời luân-lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng

Đàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật-Tổ soi đường dẫn bước

Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyện
Xin sám hối để lòng thanh thoát

Trí Phật quang-minh như nhậït nguyệt
Từ-bi vô-lượng cứu quần-sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi

Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ lời Ngài: "Bờ giác không xa"
Hành thập thiện cho đời tươi sáng

Bỏ việc ác cho đời quang-đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi

Con niệm Phật để lòng nhớ mãi,
Hình bóng người cứu khổ chúng-sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ

Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc

Phật A-Di-Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang-minh tự trang-nghiêm
Năm Tu-di uyển-chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc

Trong hào quang hóa vô-số Phật
Vô-số Bồ-tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện-độ chúng-sanh
Chín phẩm sen-vàng lên giải-thoát

Quy mạng lễ A-Di-Đà Phật
Ở phương Tây thế-giới an lành
Con nay xin phát-nguyện vãng-sanh
Cúi xin đức Từ-Bi tiếp độ

Nam-mô Tây-phương Cực-Lạc thế giới, Đại-từ, Đại-bi A-Di-Đà Phật. (3 lần)

14. Sám nguyện

Đệ tử hôm nay quỳ trước điện
Chí tâm đảnh lễ đấng Từ Tôn
Đã bao phen sanh tử dập dồn
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo

Thế Tôn đã đinh ninh di giáo
Mà con còn đắm đuối mê say
Mắt ưa xem huyễn cảnh hàng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh

Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ưa dùng gấm vóc sa sua
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ

Bởi lục dục lòng tham không đủ
Lấp che dần trí tuệ từ lâu
Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu
Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ

Nguyện tội ác từ nay chừa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo

Phật cấm giới chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng cội rễ vô minh
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại Giác từ bi gia hộ

Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bảo thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

15. Hồi hướng:

Trì chú công-đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh
Tốc vãng Vô-Lượng-Quang Phật sát.

Hồi hướng lương duyên tam thế Phật
Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Tự Tại
Chư tôn Bồ tát ma ha tát
Ma ha Bát nhã ba la mật

Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo

Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ

Nguyện dĩ thử công-đức
Phổ cập ư nhứt thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh
Giai cộng thành Phật-đạo.


16. Quy y tự tánh Tam Bảo:

Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhất thiết vô ngại. (1 lạy)
Đạo tràng hoàn mãn, hành giả đảnh lễ rồi lui ra.
 




 

Thich Nguyen TangTrở lại Tuyển Tập
TT Thích Nguyên Tạng



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4949)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5091)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4444)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4119)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4702)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4164)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3610)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6888)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6966)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5060)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]