Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đừng lãng phí đời người

07/02/201408:45(Xem: 7209)
Đừng lãng phí đời người
Nu_hanh_gia_Tay_TangĐỪNG LÃNG PHÍ ĐỜI NGƯỜI QUÝ BÁU NÀY

Thanh Liên dịch sang Việt ngữ

Theo các giáo lý nhân quả và các ví dụ v.v.., thật khó tìm được sự tự do và thuận lợi.
Cho dù ta được sinh làm một con người, vẫn còn những vùng đất rộng lớn không có Giáo Pháp.
Việc chư Phật xuất hiện và giảng dạy Pháp thì vô cùng hi hữu.
Đặc biệt là rất khó được nghe giáo lý Mật thừa.
Cuộc đời không bền vững ngay cả trong chốc lát.
Vì thế hãy suy nghĩ cẩn trọng, liệu bạn có thể lãng phí sự tự do và thuận lợi này?


(Hình bên dưới: Nữ hành giả Tây Tạng với kinh luân trong tay)

Nu_hanh_gia_Tay_TangTA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được. Điều này được mô tả trong nhiều quyển sách, chẳng hạn như Pháp Bảo của sự Giải thoát. Chính Đức Phật đã đưa ra ví dụ này:

Giả sử toàn thể thế giới này là một đại dương. Dưới đáy biển có một con rùa mù, một trăm năm mới nổi lên mặt biển một lần. Trên mặt nước là một cái ách có một cái lỗ ở giữa, bị gió thổi tới lui. Hầu như con rùa không thể chui đầu vào cái lỗ trong khúc cây đó. Tuy thế điều đó cũng còn dễ dàng hơn là có được một đời người quý báu.

Thường thì ai cũng ước muốn thoát khỏi mọi loại đau khổ. Vì thế, nếu ta sử dụng cuộc đời này một cách tốt đẹp nhất thì nó có thể khiến ta hoàn toàn thoát khỏi đau khổ. Nó có thể mang lại cho ta sự giác ngộ - đó là lý do vì sao thân người này vô cùng quý báu. Trong thế giới có nhiều hình thức sống khác nhau như các thú vật v.v.. Một số con vật có thể rất thông minh, nhưng nếu bạn bảo chúng “Đây là điều thiện lành và đây là điều bất thiện; hãy tránh điều bất thiện và thực hành thiện hạnh” hay “Đây là luân hồi sinh tử. Ta phải nỗ lực để thoát khỏi nó,” thì chúng chẳng có ý niệm gì về những điều bạn nói. Nhưng con người có tâm thức như chúng ta có thể hiểu được những điều này, và khả năng hiểu biết đó vô cùng quý báu.

Bạn có thể thấy có biết bao chúng sinh trong thế giới này. Hãy quên các cõi địa ngục và tất cả những cõi ta không nhìn thấy. Chỉ nghĩ về con người và các thú vật thôi, kể cả những loài chim, những con rệp nhỏ bé và các sinh vật biển. Trong số những con vật đó, bao nhiêu con có may mắn học Giáo pháp? Trong chúng ta là những người nghiên cứu và thực hành, ai thực sự nhìn vào tâm – có bao nhiêu người, và bao nhiêu người thành công trong việc thực hành Pháp? Rất ít! Đó là lý do khiến một hiện hữu làm người đầy ý nghĩa được cho là thật khó tìm.

Trong số tất cả các hành giả, có bao nhiêu người giác ngộ? Một ngàn vị Phật được cho là xuất hiện trong thời kiếp này, và bốn vị đã xuất hiện. Trong lịch sử của ta, chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện và giảng dạy trong hơn 2.500 năm. Vì thế các giáo lý mà ta nghiên cứu và thực hành vào lúc này thì vô cùng hiếm có. Vì sao thế? Về cơ bản, nguyên nhân để có được một thân người là giới hạnh, chẳng hạn như mười đức hạnh (thập thiện). Nói gọn lại thì đó là

  • ba giới hạnh của thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm
  • bốn giới hạnh của ngữ: không nói dối, không nói lời gây chia rẽ, không nói lời khó nghe, và không tham gia vào việc trò chuyện vô ích.
  • ba giới hạnh của tâm: không tham muốn, không có tư tưởng ác hại, và không giữ những tà kiến.

Nhiều bản văn nói rằng ta phải giữ giới hạnh như nền móng cho hiện hữu làm người. Nhưng như ta biết, thật không dễ thực hành mười thiện hạnh. Nếu ta không giữ giới hạnh, rất có thể ta sẽ bị sinh trong những cõi thấp, nơi không có cơ hội để nghiên cứu và thực hành Giáo pháp quý báu. Không chỉ có thế, ta sẽ không có sự an bình ngay cả trong cuộc đời này. Bởi nếu không có giới hạnh, ta sẽ không dễ dàng tìm thấy một đời người cao quý nên các Bồ Tát trì giữ giới hạnh thuần tịnh để trong đời sau các ngài lại có thể tái sinh làm người ở nơi có Giáo pháp.

Trong đời này, trì giữ giới hạnh nói đến việc tránh làm mười ác hạnh và thực hành mười thiện hạnh. Mười thiện hạnh là nguyên nhân chính yếu để có được đời người. Điều tối quan trọng là phải hiểu rằng các thiện hạnh đó là nền tảng của mọigiới hạnh; tất cả những giới luật khác được xây dựng trên nền móng này. Chẳng hạn như trên nền tảng này, ta thực hành sáu ba la mật và phát triển một ước nguyện thuần tịnh luôn luôn được gặp Giáo pháp và đạt được giác ngộ.

Hãy nhìn thẳng vào bản thân bạn và xem việc thực hành Pháp của bạn hiện nay mỹ mãn tới mức độ nào. Hãy thành thật. Nhìn vào tâm và xem các tư tưởng tiêu cực có giảm bớt mỗi tháng hoặc mỗi năm hay không, và các tư tưởng tích cực có phát triển không. Dường như năm này qua năm khác, sự việc vẫn y như thế, đúng không? Đó là lý do vì sao việc tịnh hóa các tập quán tiêu cực của ta được cho là vô cùng khó khăn. Với đời người quý báu này, nếu đủ nỗ lực, ta có mọi khả năng, mọi cơ hội, để giải thoát chính mình khỏi mọi tập khí xấu xa đó.

Mật thừaám chỉ giáo lý Kim Cương thừa. Bởi những giáo lý này không được truyền xuống qua dòng truyền thừa của chúng, một số Phật tử đã nói rằng Đức Phật không giảng dạy các giáo lý đó. Họ tin rằng Kim Cương thừa là giáo lý do người Tây Tạng tạo nên bằng cách pha trộn Ấn giáo và đạo Bön. Tuy nhiên, vào thời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chỉ có những đệ tử vĩ đại, đặc biệt như Vajrapani (Kim Cương Thủ) mới được nhận giáo lý Kim Cương thừa; Mật thừa không được giảng dạy rộng rãi. Vì thế, ta không nên xem thường Kim Cương thừa. Nhờ rất may mắn tích tập đầy đủ thiện nghiệp từ nhiều đời nên ta mới có thể nghe những giáo lý này. Được thôi thúc bởi sự hi hữu đó, ta hãy phát triển lòng can đảm và nhận trách nhiệm tuân theo các giáo lý ấy một cách chân thành.

Đôi khi ta có thể nghegiáo lý Mật thừa, nhưng ta có hiểu nó hay không? Nếu không hiểu thì ta không thực sự nghe giáo lý đó. Câu truyện ngụ ngôn dưới đây giúp ta hiểu rõ điều đó: Có người hỏi con cú: “Vì sao đầu của bạn bẹt ra như thế?” Nó trả lời: “Đó là bởi tôi được đặt rất nhiều bình quán đảnh lên đầu.” “Vì sao bạn có lông tai?” “Bởi tôi không từng nghe ngay cả một lời Giáo pháp.” Đây là câu chuyện ngược đời của những con cú. Con cú đã nhận rất nhiều quán đảnh nhưng không hiểu Giáo pháp. Tương tự như thế, ta cũng nhận nhiều quán đảnh nhưng tâm ta vẫn không thuần thục và vẫn trơ lì. Điều này không có nghĩa là ta không nhận được những gia hộ từ quán đảnh mà bởi những trông đợi mãnh liệt của ta đã không mang lại kết quả.

Cuộc đời không bền vững ngay cả trong chốc lát; nó trôi đi trong từng giây phút. Ta sinh ra và lớn lên; ta đang già đi mỗi ngày. Mọi sự trong đời ta đều vô thường. Một ngày kia ta sẽ đi qua đời sau, nhưng ta không biết mình đi đâu và khi nào sẽ đi. Hãy nhìn vào tâm. Có lúc ta tràn đầy nghị lực; ở phút giây kế tiếp, tim ta tan vỡ. Giây phút này ta thấy tốt lành; giây phút kế tiếp ta cảm thấy tệ hại. Giây phút này ta tràn trề niềm tin; giây phút sau ta hoàn toàn thất vọng. Tất cả những điều này diễn ra liên tục. Giống như tâm mỏng manh, cuộc đời cũng mỏng manh như thế.

Đời người này có thể tạo nên ác nghiệp mạnh mẽ như thế; không có hình thức sinh tồn nào khác có thể sánh với nó. Trái lại, nếu ta sử dụng đời người một cách tích cực, thân thể này có thể thành tựu rất nhiều và làm lợi ích chúng sinh; không hình thức sinh tồn nào khác có thể làm được điều đó. Vì thế, đời người của ta như một giao lộ: ta có thể đi xuống địa ngục hay đạt được giác ngộ. Cả hai con đường đều đầy uy lực. Giáo pháp cho ta một chỉ dạy về cách sử dụng cuộc đời này một cách tối ưu. Cùng lúc đó, đời người này hết sức vô thường, vô cùng mỏng manh. Nếu ta thở ra và không hít vào, cuộc đời ta đã chấm dứt.

Hãy suy nghĩ cẩn trọng. Xin hãy suy niệm về những điều này. Chắc chắn là mọi chúng sinh đều khát khao hạnh phúc. Cũng thật rõ ràng là mọi chúng sinh đều muốn thoát khỏi đau khổ. Họ là ai, họ được sinh vào loại văn hóa nào, hay họ có hệ thống niềm tin nào, điều đó chẳng có gì là quan trọng. Họ vẫn muốn thoát khỏi đau khổ cho dù không tin vào bất kỳ tôn giáo nào. Nhưng bạn thấy đấy, hạnh phúc không đến chỉ bằng cách nói “Tôi muốn nó.” Đau khổ không ra đi bởi bạn nói bạn không mong muốn nó. Điều này cho thấy hạnh phúc và đau khổ là những kết quả được tạo ra. Do bởi điều đó, mọi người đều nỗ lực và làm việc cực nhọc trong đời họ, dù họ có tâm linh hay không, dù họ nghiên cứu Giáo pháp hay công nghệ. Họ tìm kiếm những gì mang lại hạnh phúc cho họ, điều gì để thoát khỏi đau khổ. Mọi người đều bận rộn mà không thoát khỏi đau khổ. Đức Milarepa nói:“Để thoát khỏi đau khổ, chúng sinh tạo thêm đau khổ.”Ta không cố ý làm điều này. Như thế điều gì xảy ra? Kiểu mẫu đau khổ của ta được tạo nên bởi mê lầm và vô minh. Giáo pháp chỉ cho ta con đường, cách thức chân thực để hiểu biết về đau khổ và thoát khỏi nguyên nhân của nó. Điều đó rất quan trọng và đó là lý do vì sao ta hết sức tôn kính Giáo pháp. Dù sao chăng nữa ta cũng đang làm việc, vì thế tại sao không nỗ lực thêm chút nữa trong việc nghiên cứu và thực hành Pháp, là điều mang lại cho ta trí tuệ sâu sắc để thấu hiểu nguyên nhân đích thực của việc thoát khỏi đau khổ? Điều này vô cùng hợp lý.

Tất cả những Đạo sư vĩ đại trong quá khứ đã làm việc khó nhọc để bảo tồn Giáo pháp nhờ đó ngày nay chúng ta có được những giáo lý đó. Giờ đây ta có trách nhiệm nghiên cứu và thực hành Giáo pháp quý báu này để duy trì nó cho những thế hệ mai sau. Hãy lấy tiểu sử của Đức Marpa làm ví dụ - ngài đã hy sinh cuộc đời cho Giáo pháp ra sao. Với đôi chân, ngài đã du hành sang Ấn Độ qua những cánh rừng rậm, nóng bức và đầy những kẻ cướp và dã thú. Không có những con đường, không có máy bay hay xe lửa, không có máy điều hòa không khí, không có ngay cả những chiếc quạt điện. Sau khi thọ nhận những giáo lý vĩ đại, ngài nói: “Trong một chuyến du hành dài như thế, ta đã đi bộ trong rừng rậm nóng bức, nơi có nhiều dã thú. Mặc dù tâm ta rất kiên cố, thân ta hầu như quỵ xuống khi nghe tiếng hổ gầm và tiếng sột soạt của những con rắn.” Ngài phải mang mọi thứ trên lưng – thực phẩm, quần áo, tiền bạc, kinh sách. Ngài đã du hành tháng này qua tháng khác mà thậm chí không biết mình có thể tìm thấy giáo lý ở đâu. Trong chuyến đi Ấn Độ lần thứ ba, ngài không biết chỗ ở của Naropa, vì thế ngài đã tìm kiếm nhiều tháng trong khi cầu nguyện, thiền định, khẩn cầu, bôn ba khắp nơi. Nhờ ngài hy sinh như thế mà ngày nay chúng ta có được Giáo pháp quý giá này. Vì thế ta nên gánh vác trách nhiệm duy trì Giáo pháp và đừng xem thường những giáo lý ấy.

Marpa nhận giáo lý vào ban ngày và sau đó thực hành vào ban đêm. Nhờ nỗ lực như thế, ngài đã thành tựu như một Đạo sư vĩ đại và đã dịch nhiều bản văn Giáo pháp quan trọng từ Phạn ngữ sang tiếng Tây Tạng. Vì thế ta không nên thực hành chỉ vì lợi lạc của riêng mình, nghĩ rằng: “Làm sao tôi có thể hạnh phúc trong sinh tử?” Thay vào đó, hãy mở rộng trái tim bạn và tạo lập một tâm thức to lớn. Hãy phát triển lòng dũng cảm và làm việc để củng cố Giáo pháp. Mỗi cá nhân quan tâm đến Giáo pháp có trách nhiệm giải thoát khỏi đau khổ vì lợi lạc của những thế hệ mai sau, giống như đại dịch giả Marpa đã làm. Khi suy xét đời người quý báu ra sao và việc tạo lập mọi nhân duyên để đạt được giác ngộ khó khăn thế nào, làm sao ta có thể lãng phí cơ hội quý báu này?

Trích dịch từ nguyên tác “A Complete Guide to the Buddhist Path”by Khenchen Konchog Gyaltshen
edited byKhenmo Trinlay Chödrön
Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/09/2010(Xem: 8652)
Tronghệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động. Cũngnhư có những trang kinh đức Phật chỉ dạy phương pháp báo đáp ân đức sâudày đối với song thân một cách thiết thực nhất. Có nghĩa là đức Phật đãchỉ bày cách báo ân chơn chánh, hợp đạo lý, có lợi ích trong hiện đời và mai sau...
24/09/2010(Xem: 7387)
Nghèo khó và thịnh vượng là hai điều kiện khác nhau trong số những sự thực của cuộc sống. Bạn, tôi và những người còn lại trong thế giới này rơi vào một trong hai điều kiện ấy. Chúng ta có thể giàu hay nghèo về phương diện của cải vật chất hay phương diện tâm linh. Rõ ràng hai cụm từ này, “nghèo khó” và “thịnh vượng”, có những ngữ nghĩa khác nhau. Trước khi bàn đến những quan điểm của Phật giáo về sự nghèo khó và thịnh vượng, chúng ta cần biết chính xác về ý nghĩa của hai thuật ngữ này.
24/09/2010(Xem: 5882)
Người tham muốn ngủ nghỉ nhiều, thì quá nửa đời mình lẩn quẩn trên chiếc giường, bộ ván; ăn xong lại nghỉ chuyện đi nằm chẳng muốn làm gì hết, khi ngủ xong lại muốn ngủ nữa giống như các loài heo vậy đó, mất cả tự chủ và thể diện của mình. Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu, lười biếng, ăn không ngồi rồi. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế, tối ngày chỉ biết ăn rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng biết làm gì.
23/09/2010(Xem: 10221)
Nghi lễ sẽ tạo thành không khí lễ nghĩa, làm cho con người có tập quán đạo đức hướng về điều tốt điều phải một cách tự nhiên. Ở chỗ có mồ mả thì có cái không khí bi ai...
22/09/2010(Xem: 11596)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ.Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn làđức Bồ tát Quan Thế Âm, hay Mẹ hiền Quan Âm. Vì vị Bồ tát này có đầy đủ phẩmchất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ. Hình như trong mọi trái timcủa những người con Phật thuần thành nhất là giới Phật tử bình dân không ai làkhông không có hình ảnh đáng tôn kính của vị Bồ tát giàu lòng bi mẫn này...
22/09/2010(Xem: 9821)
Cuộchành trình miên viễn của kiếp sống trầm luân sáu nẻo luân hồi đã thôithúc rất nhiều người đi tìm những phương pháp để thoát ly khổ não. Hạnh phúc và khổ đau là hai thực trạng của cuộc sống mà con người luôn đề cập tới. Nhưng để biết được hạnh phúc là gì thì con người phải trực nhận ra được bản chất của khổ đau như thế nào rồi mới bàn tới phương pháp giải quyết khổ đau... Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, đức Phật dùng tri kiến thanh tịnh quan sát khắp cả thế giới. Bằng tuệ nhãn, Ngài thấy chúng sanh có nhiều căn tánh bất đồng...
22/09/2010(Xem: 10776)
Ngàynay,lễ Tự tứ không còn đơn thuần mang dấu ấn lớn dành cho chư Tăngtrong giới thiền môn sau ba tháng An cư kiết hạ hàng năm, mà nó đã thựcsự tác động mạnh vào đời sống đạo đức xã hội trong việc xây dựng nếpsống an lạc, hạnh phúc cho con người. Bởi vì, suy cho cùng thì giá trịcủa lễ Tự tứ là sự thể hiện việc quyết định nỗ lực hoàn thiện nhâncách, thăng chứng tâm linh và khai mở trí tuệ đối với mỗi cá nhân conngười trong cuộc sống vốn biến động không ngừng... Nguyên tắc của Tự tứ là phải thanh tịnh hòa hợp, do đó mọi hành giả trong buổi lễ này đều khởi lòng tự tín với chính mình và các vị đồng phạm hạnh khác.
22/09/2010(Xem: 9266)
Trongtấtcả mọi giá trị có mặt ở đời, thì giá trị giải thoát khổ đau làtối thượng nhất, mọi giá trị khác nếu có mặt thì cũng xoay xung quanhtrục giá trị thật này. Vu lan là ngày lễ khiến mỗi người, dù xuất giahay tại gia đều hướng tâm nguyện cầu, thực thi hạnh nguyện giải thoát.Từ điểm nhìn này, thông điệp giải thoát của lễ Vu lan đem lại có nhữngý nghĩa, giá trị cao quý mà ngày nay mọi người thường hay tâm niệm đến... Giá trị giải thoát đầu tiên cần đề cập đến là từ khi đạo Phật được thể nhập vào đời sống văn hóa nước ta thì lễ Vu lan của đạo Phật trở thành lễ hội truyền thống...
22/09/2010(Xem: 5574)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
21/09/2010(Xem: 6432)
Gần đây, do có nhiều hình ảnh về Mạn Đà La chụp được trong các cuộc lễ cungnghinh Phật Ngọc cầu nguyện hòa bình thế giới tại các chùa ở hải ngoại và được đăng trên một số trang mạng điện tử toàn cầu, cũng như được phổ biến qua thư điện tử, có vị đã viết bài chỉ trích cho rằng đó là “hiện tượng mê tín không nên truyền bá,” đã làm một số Phật tử hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567