Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bước đầu tu tập

28/01/201417:36(Xem: 7509)
Bước đầu tu tập

hoa_sen (2)
BƯỚC ĐẦU TU TẬP

Trong Phật giáo cũng như bất cứ tôn giáo nào, một người bước vào ngưỡng cửa tín ngưỡng, cũng phải tìm hiểu về tôn giáo mình đang theo, ít ra nắm vững giáo lý của một tôn giáo do minh muốn chọn. Đó là nguyên tắc, nhưng phần lớn người đến với đạo Phật, họ đến bằng lòng sùng tín hơn là học hỏi tìm hiểu, vì thế, không tránh khỏi mê tín qua việc cầu khấn, đốt vàng mã, xin xăm bói quẻ và vô số hình thái mà giáo lý nhà Phật không hề khuyến khích.

Ở đây, ta đề cập đến những tâm hồn muốn đến với Phật giáo bằng trí tuệ để tiến hóa tâm linh chứ không vì lợi dưỡng trong cuộc sống. Qua giai đoạn khá dài cho việc "bước đầu học Phật" để nắm vững giáo lý (không phải là tín điều như các tôn giáo khác); người tín đồ bắt đầu bước vào lãnh vực tu tập, có nghĩa là chuẩn bị cho một hành trình giải thoát tâm linh mà hệ quả kiếp người chập chùng khổ đau do nghiệp nhân quá khứ đem đến một bài học trong cỏi luân hồi.

Thật vậy, tôn giáo không phải là vật trang trí cho tín đồ, mà tín đồ cũng không phải là nhân tố biểu trưng tầm vóc cho một tôn giáo để xác định ưu thế tôn giáo trong xã hội. Ý thức kiếp nhân sinh là Vô Thường, Giả tạo, Khổ đau, nên người đến với Phật giáo là người tự tìm cho mình con đường thoát khổ, tự mình thoát khổ ngay kiếp sống hiện tại mà không cậy vào ngoại lực Thần linh để trốn trách nhiệm nhân quả tích tụ trong nhiều đời do mình đã tạo.

Tứ Thánh Đế là giáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho hành giả tìm được mấu chốt của vấn đề, sau khi nắm được mấu chốt, các pháp hành như Bát Chánh Đạo, lục độ, Tứ nhiếp pháp..,là những nấc thang tự chỉnh đốn thân khẩu ý thường nhật. Tuy nhiên, đó là những nấc thang tiệm tiến nếu tự thân không đi sâu vào pháp hành tâm linh thì sự hoán chuyển xấu thành tốt, bất thiện thành thuần thiện chỉ là lộ đồ giáo dục hành thiện.

Cố gắng bỏ xấu chọn tốt là công đoạn gỡ rối cho một cuộn chỉ, cái rối của nghiệp lực bao phủ kiếp nhân sinh mà ngổi gỡ từng manh mối thì e rằng trọn kiếp chưa đủ để giúp ta giải thoát khổ đau mà chỉ có khả năng giúp ta thành con người hoàn thiện giữa những cái bất thiện. Chính vì vậy, các tông phái Phật giáo đều có pháp hành chuyên biệt. Phật giáo Nam Tông thông dụng pháp Vipassana, Phật giáo Kim Cang thừa, tuy dùng nghi thức ngoại tướng để dẫn sâu vào tự tánh, Kim cương thừa có bốn thứ lớp Tantra: Kriya Tantra, Carya Tantra, Yoga Tantra và Annutarayoga Tantra. cũng không thiếu các chân sư lấy vô tướng, tịch tĩnh làm bạn song hành. Ta nghe Lạt ma Dilgo Khyentse Rinpochenói:

AN TRÚ NƠI CÔ TỊCH
LÀ THỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT

Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt;

Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên;

Khi sự tỉnh giác trở nên trong trẻo hơn, niềm tin nơi Giáo Pháp tăng trưởng –

An trú nơi cô tịch là thực hành của một Bồ Tát.

Khi bạn sống ở một nơi cô tịch, những cảm xúc tiêu cực của bạn dần dần giảm bớt, sự tự chủ và tiết chế của bạn tăng trưởng.

Chính Gyalse Thogme đã nói:

Ở một nơi cô tịch,

Không có kẻ thù để đánh bại,

Không có người thân để bảo vệ,

Không có người trên để tôn kính,

Không có thuộc hạ để chăm nom.

Vì thế, ngoài việc điều phục tâm mình,

Bạn sẽ phải làm điều gì khác ở đó, hỡi những người trì tụng Mani?1

Phật giáo Bắc truyền còn nhiều pháp hành tùy mỗi thời đại, mỗi quốc độ căn cơ khác nhau mà chư tổ chế tác ra pháp hành khác nhau, mỗi pháp hành là một phương tiện giúp hành giả tiến sâu vào thế giới tâm linh, vì thế, pháp hành không phải là cứu cánh tuyệt đối. Chính vì thế một pháp hành không thể thích ứng cho mọi đối tượng, mỗi đối tượng tự mình tìm hiểu một pháp môn thích hợp với căn cơ của mình mới đưa đến kết quả nhất định.
Bước đầu chọn pháp, biết thế nào là một pháp thích hợp căn tánh của đương cơ? Cũng như dùng thuốc, nếu thuốc Tây, trong ba ngày biết được hiệu quả của thuốc, thuốc Bắc từ một tuần trở lên; pháp hành từ ba tháng mà cảm thấy có an lạc, có tiến bộ qua nhân cách và trí tuệ thì đó là pháp tương thích với đương cơ. Một pháp kiên trì suốt thời gian dài mà không thấy thay đổi thân tâm thì nên chuyển hướng. Đừng nên bắt chước số đông đang hành một pháp mà hãy chọn một pháp để tâm hành được tiến bộ. Vô lượng pháp môn tu tương thích với vô lượng căn cơ của hành giả.

Điều quan trọng là tín giả phải có lòng khát khao cầu pháp và chí hướng giải thoát.Không chỉ có một pháp môn thích hợp mà còn cần có một chân sư hoàn hảo, chỉ có chân sư hoàn hảo mới nắm bắt được nghiệp căn của đệ tử mà truyền năng lượng tuệ giác trong quá trình đệ tử hành trì. Năng lượng tâm linh của một vị minh sư giúp đỡ đệ tử rất nhiều; thứ nhất là năng lượng dương sẽ bạt nghiệp âm của đệ tử để tín giả đủ công năng hành trì đến khi đắc pháp, bấy giờ đệ tử mới đủ năng lực tự chuyển hóa nghiệp lực. Dĩ nhiên tính miên mật cho việc hành trì là điều tối cần. Bạn sẽ hỏi: làm sao tìm được một minh sư hoàn hảo, hay biết ai là minh sư hoàn hảo và xác định thế nào về sự hoàn hảo của một chân sư?

Thực ra tín giả khó mà tìm một chân sư hoàn hảo, chỉ có chân sư hoàn hảo tìm đến khi tâm thành của tín giả đạt đến một mức độ cảm ứng vô hình. Như vậy điều kiện tiên quyết cần phải có cho một tín giả đặt chân lên ngưỡng cửa tâm linh:

1/ hiểu đúng giá trị con đường tâm linh chứ không phải hình thức tôn giáo

2/ lòng khát khao chân thành tìm đường giải thoát

3/ chọn một pháp hành tương thích với căn cơ

4/ tâm luôn trong tình trạng xả ly và nuôi dưỡng tâm từ cao độ

5/ thể hiện tự tánh Tam bảo của tự thân.

6/ hiểu và nắm vững giáo lý Phật giáo để tránh sự lầm lạc trong quá trình hành trì.

7/ không nuôi thân bằng mạng sống của các động vật.

Như gạo đun đủ lửa, nước, thì tự khắc cơm sẽ chín, nghĩa là tự thân chuẩn bị đủ những tiêu chuẩn tâm linh thì minh sư hoàn hảo là một năng lượng tuệ giác sẽ đến với tín giả một cách tình cờ thông qua một hình thức nào đó.Đó là bước sơ khởi đi vào lãnh vực tu tập tâm linh. Trên con đường thẩm thấu tâm linh, hành giả còn phải kinh qua lắm chướng duyên, bế tắt do nghiệp thức lạc dẫn, nhưng bên cạnh hành giả, luôn có lực lượng minh sư bảo hộ như sự bảo hộ của chư Thần Kim Cang dành cho các hành giả Kim Cang Thừa.

MINH MẪN 27/01/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6926)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4317)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9152)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5484)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5116)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5710)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6203)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5216)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]