Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Câu Chuyện Thiền Ở Trúc Lâm - Huế

09/04/201317:36(Xem: 7091)
Câu Chuyện Thiền Ở Trúc Lâm - Huế


Câu Chuyện Thiền Ở Trúc Lâm - Huế
Điều ngự tử Tín Nghĩa

OnTrucLam


Ảnh này Ôn gởi cho Tín Nghĩa, chụp bên giò Ý thảo nở rộ toàn màu trắng.

Ngày còn ở quê nhà, tôi làm nghề gõ đầu trẻ từ Tiểu học lên Trung học, từ Huế vào Đà Nẵng. Sau tháng Tư đen, cũng như bao nhiêu nhà giáo lớp vào tù cải tạo, lớp vượt biên, lớp âm thầm sống cho qua ngày đoạn tháng. Trong số đó có bản thân tôi. Khi đang còn ở trong chúng Trúc Lâm, theo ẩn náu hạnh đức nghiêm từ của Sư phụ để tu tập tiếp. Hằng ngày, khi thì lên núi đốn củi, hái rau, khi thì làm nông thuyền, hòa đồng cuộc sống với đại đa số quần chúng trong giai đoạn đổi đời này. Tôi là vị tu sĩ đầu tiên ngồi lên máy cày để cày ruộng cho chùa và cày giúp cho một số chùa thiếu phương tiện như Hồng Ân, Khải Ân(quận Nam Hòa), Thiên Hưng, v.v… ; sau tôi là có thầy Hải Ấn, nay là ngôi vị Hòa thượng, Trú trì Tổ Đình Từ Đàm Huế và cũng là vị tu sĩ Bác sĩ duy nhất tại miền Trung Việt Nam.
Hằng ngày, ngoài công việc đồng áng, nông thuyền, tôi thường cùng với giáo sư Lê Văn Phước nghiên cứu và chơi Phong lan(Giáo sư Phước hiện giờ đang sinh sống với gia đình ở San Jose).Cũng nhờ anh Phước mà tôi biết nhiều về Phong lan và cũng vì được Sư phụ thích Phong lan nên tôi gần như được khuyến khích và đam mê. Những giò lan trước khi tôi ra đi gồm những giò tên tuổi như : Hồ điệp, Ý thảo, Hoàng phi điệp, Nhất điểm hồng, Nghinh xuân, Thủy tiên, Phượng vĩ, Nhện hùm, Thạch học, v.v.. Tôi có cả thảy trên ba mươi loại, đều ghi tên và ngày tháng có được, rất đầy đủ ; có giò thì treo lủng lẵng bằng gỗ mít, có giò thì để vào chậu đất nung, nhưng cũng treo lủng lẵng, chứ không để vào những chiếc đôn sành xưa ; vì : thứt nhấtlà không đủ những chiếc đôn để dùng,thứ hailà không đủ chỗ để bài trí. Nếu để thấp thì dễ bị những con sâu chiếu hay giun đất bò vào ăn những rễ non, chồi non mới ra, giò lan khó phát triển và có thể bị hư thối luôn. Còn một số khác trùng tên, nhưng không có chỗ để bài trí thì tôi gắn vào các cây gần nhà, phần lớn là những cây mít. Đến mùa Phong lan nở hoa, tất cả giàn phong lan trong sân chữ khẩu cùng trên những cây mít đều có hoa nở trắng hoặc vàng. Đẹp nhất là màu Hoàng phi điệp và Ý thảo. Ngày tôi đã ở hải ngoại, khi thành lập Tổ ình Từ Đàm Hải Ngoại tại Dallas rồi. Sư phụ tôi nghe được và vui mừng, ngài thương tình chụp một cái ảnh sát bên chậu Ý thảo treo ở nhà Tây, nơi Sư phụ tôi ngủ nghỉ và sau khi Ngài hậu Phật cũng thiết trì bàn thờ, Long vị và Di ảnh của Ngài ở gian giữa. Ngài biểu quý huynh đệ gởi ra cho Tín Nghĩa làm kỷ niệm, dù sao cũng là công hạnh của Tín Nghĩa. Hiện giờ bức ảnh ấy vẫn còn, và tôi cũng có ghép ảnh của tôi vào đó để gởi về Ngài làm lưu niệm năm Nhâm tuất - 1982. Bức ảnh ấy, ảnh lớn chính là của Ngài, ở giữa là giò lan Ý thảo và phần thấp thì một chiếc ảnh nho nhỏ của tôi mạo muội ghép vào.
Ở Hoa Kỳ tôi không thấy những thứ phong lan như vừa kể trên, đa phần là Hồ điệp đủ màu, hoa lớn hơn ở Việt Nam. Việt Nam hoa Hồ điệp cây nhỏ và thấp, hoa nhỏ, chỉ có màu tím than. Giò phong lan có đầu tiên tại Trúc Lâm là Hồ điệp, do một vị sư thân tín với Sư phụ chúng tôi kính tặng, nhưng chưa có hoa bao giờ. Chúng tôi chỉ thấy ở cây chính của vị sư kia mà thôi.
Cũng nhờ thích Phong lan, nên dễ dàng tìm đường vượt biên. Vì đi đến đâu, trước ghi-đong xe tôi cũng có một giò lan treo tòn ten. Những lúc đi vào vùng hơi lạ, sợ thiên hạ để ý, hoặc sợ chính quyền sở tại theo dỏi, thì giò lan là phương tiện trả lời nếu bị xét hỏi. Tình trạng xét hỏi như thế, tính đến ngày vượt biên ít nhất cũng trên hai chục lần. Lần nào cũng mất một giờ bị kiểm tra là chuyện thường. Đi riết rồi, anh chàng công an địa phương tên Luyến cũng dễ dàng và vui vẻ mỗi khi ra xã để xin cấp Giấy đi lại. Chàng công an này, quý thầy cô và dân vùng quanh Trúc Lâm đặt cho tôi một biệt danh là Ông Thầy Phong Lan. Đặc biệt anh chàng công an này, lúc mới đầu, đi vào chùa nào anh cũng gọi quý thầy cô là anh và chị ; nhưng quý thầy cô vui vẻ từ từ hướng dẫn cho anh ta biết lần và từ đó, mỗi khi gặp quý thầy cô cũng bắt đầu chấp tay niệm A Di Đà Phật theo thổ ngữ Quảng Bình.
Có một chuyện mà tôi không bao giờ quên cùng với anh chàng Luyến này là : Một đêm gần kỵ tổ Trúc Lâm, anh cũng la cà vào ngồi chơi với quý thầy. Anh vào chùa tự nhiên chứ không còn e dè như lúc chưa quen biết, nên anh vào chấp tay vái chào quý thầy và cùng ngồi chơi. Anh cũng lột súng để một bên cùng uống trà. Trong câu chuyện vui nói qua nói lại thì đồng cười xòa và quên là Sư phụ đang nghỉ ở liêu phòng, đã làm ồn lên. Từ trên liêu Sư phụ, ngài nghe khó chịu, đêm khuya, tuổi già khó ngủ, ngài đi xuống thấy tất cả ai ai cũng cười la ồn ào, Sư phụ tôi từ từ bước tới tặng quý thầy gần nhất một bạt tai, và Ngài còn cất tiếng :
- Đồ Cộng Sản.
Đại chúng thấy vậy, tất cả hơi xa tầm tay của ngài thì mạnh ai nấy chạy trốn kể cả chàng công an nầy.
Chúng tôi nghe ôn dạy : Đồ Cộng Sản, mà chàng Công an Luyến này là Cộng Sản thiệt, dân Quảng Bình cũng phải chạy.
Sau khi thấy không khí bắt đầu vắng lặng, anh chàng công an Cộng Sản thứ thiệt này hoàng hồn, nhè nhẹ lần mò vào chỗ ngồi cũ để tìm lại khẩu súng lục đã bỏ lại, lấy mang vào rồi còn chấp tay vừa vái chào quý thầy, vừa cười đưa hàm răng khểnh màu ngà, cởi xe đạp đi vào trong đêm tối một mình, dưới cơn mưa rả rích của tháng mười.
Chúng tôi, lớn nhỏ ra dấu hiệu bảo Cu Nóc đi vào thăm dò trước.(Cu Nóc là chú điệu nhỏ nhất chùa, chúng tôi đặt tên, nay là ngôi vị Thượng tọa Thích Phước Sơn,chùa Vạn Phước, Sài Gòn, một tay trống cừ khôi như Ôn Trúc Lâm vậy. Cũng là cháu gọi Ôn bằng Ông Nội chú).Chính tôi cũng đã từng dạy tán tụng cho chú. Khi tôi bước chân xuống thuyền để tìm tự do, thì chú vẫn còn là điệu chúng Trúc Lâm.
Ra đến hải ngoại này, mỗi lần tâm sự qua điện thoại hoặc gặp nhau với Pháp đệ Thượng tọa Thích Tâm Minh(hiện là Tọa chủ chùa Trúc Lâm tại Úc Đại Lợi)về chuyện Sư phụ dạy chúng. Hai chúng tôi cũng cười và cũng đồng lòng rằng bây giờ hai chúng ta thiếu một ân huệ và phước báu to lớn : Không còn được Ôn rược chạy như xưa. Rồi cũng đồng ý với nhau rằng : Ở Trúc Lâm mà không bị Ôn rược, không bị Ôn bạt tai là chưa phải chúng điệu Trúc Lâm. Chúng tôi thành thân đến ngày hôm nay là nhờ cái Rược, cái Bạt tai đầy thiền vị ấy.
Nhơn đây, tôi xin trích một đoạn ngắn của thầy Trung Hải Nhuận, viết trong cuốn Tưởng niềm về Ôn Mật Hiển như sau, qua bài“Biển Trời Cùng Xanh”
. . . “Ở xứ Huế vào những thập niên 60-70, hễ nghe đến chùa Trúc Lâm thì ai cũng thích vì cảnh trí thâm u, rừng thông rợp bóng, tiếng chim líu lo. Thế nhưng, hễ nghe đến Ôn Trúc thì ai cũng cảm thấy hơi ớn lạnh. Vì sợ Ôn lắm ! Cái cảm giác chung là thấy mình bất an khi đứng trước Ôn, như kẻ đi đêm hay sợ ma, họ sợ Ôn lắm. Có người cho rằng sợ Ôn vì Ôn rất nghiêm, có lẽ đúng một phần. Nếu là Tăng Ni mà ai sơ ý gặp Ôn không chào là Ôn kêu lại cho ăn một “bớp” ngay tại chỗ. Vì Ôn cho rằng vị đó học Luật không thuộc, Thầy của vị ấy dạy đệ tử không nghiêm, nên không chào hỏi bậc bề trên. Giới cư sĩ gặp Ôn họ cũng có cảm giác hơi sợ vì có cái gì đó khó nói khó tả. Mà thật trông hình tướng của Ôn cũng thấy sợ rồi ! Có người nói Ôn là chủ của thế giới siêu nhiên, là người của Mật tôn, nên nhiếp phục được Ma cho nên Ma nó sợ. Ma sợ thì người cũng phải sợ theo vì Ma với người có quan hệ mật thiết với nhau. Có người nói là do đức độ tu hành của Ôn …
Vâng, đại thể nói về Ôn Trúc là họ nói vậy. Ở Huế từ lớn chí nhỏ ai mà không biết Ôn Trúc. Thứ đến phải nói Ôn là vị Trú trì của ngôi cổ tự, là người nối tiếp dòng dõi Trúc Lâm rất nổi tiếng ở Huế. Ôn lại là nhà tu hành nghiêm túc nên mọi người khó tiếp cận. Trong cái khó tiếp cận đó thì dáng vẻ bên ngoài của Ôn cũng đã góp phần không nhỏ. Vóc dáng Ôn mảnh khảnh, ốm người, mắt sâu, da hơi ngăm đen, dáng đi nhanh nhẹn như con Báo. Đặc biệt là đôi mắt đen ấy, khi Ôn nhìn vào ai thì cứ như xoi xỉa vào tận tim gan của người ấy, sắc hơn dao cạo nên mọi người đều sợ, nhất là bọn trẻ con. Nên hễ nghe đến Ôn Trúc là họ sợ lắm, ngán lắm. Đó là cảm giác của bọn học Tăng chúng tôi khi nghe kể về Ôn.” . . .

Và,
. . . “Riêng Ôn Trúc thì hơi đặc biệt hơn. Đặc biệt ở chỗ Ôn rất trọng người có tu, có học, có tài. Nếu người đó bằng Ôn hay hơn Ôn nhưng là người được Giáo hội giao phó trách nhiệm thì Ôn rất tôn trọng sự sắp đặt ấy, mặc dù người đó ít tuổi hơn Ôn. Ôn luôn luôn trung thành với Giáo hội. Khi đã nhận trách nhiệm, Ôn bao giờ cũng làm gương và đi đầu trong công việc. Ôn luôn trọng người có tài lo cho đạo. Ôn là bậc đàn anh nhưng khi Giáo hội giao cho đàn em như các thầy Thiện Minh, Trí Quang, Mật Nguyện, Thiện Siêu… lãnh đạo thì Ôn rất hoan hỷ.” . . .
Chuyện thiền ở Tổ Đình Trúc Lâm qua sự dạy dỗ chúng điệu và quần chúng xa gần dù là dân giả hay trí thức còn nhiều lắm, vì trang báo có hạn, chúng tôi tạm ngưng ở đây. Nếu có dịp chúng tôi xin hầu chuyện tiếp.
Nhơn đây là số kỷ niệm Phật đản lần thứ 2557, mà Sư phụ chúng tôi thì hầu Phật đúng vào ngày Phật đản, Rằm tháng Tư Nhâm thân(Chủ nhật, ngày 17-05-1992)để tưởng niệm về Ngài ; đồng thời cũng nhắc lại một câu lịch sử không những chỉ tồn đọng trong giới thiền môn mà cả đại khối quần chúng từ Cố đô Huế, miền Trung và cả toàn cõi Việt Nam chúng ta nữa.
Đó là câu Ngài dạy :
“Làm thầy tu thì đừng sợ chết, nếu sợ chết thì đừng làm thầy tu.”,đã được Cố Đại lão Hòa thượng Thích Thiện Siêu, kính cẩn nhắc lại trước khi phò nhục thân của Ngài nhập tháp.
Ngài Thiện Siêu đã nhận mạnh :
. . . “Làm sao chúng tôi quên được những tháng ngày cùng lao cọng khổ, chung lo Phật sự, đạo phong của Hòa Thượng thì trác việt, nếp sống thì bình dị, nói năng thì khẳng quyết hùng hồn.
Chính lời nói này của Hòa Thượng đã làm cho Tăng ni và Phật tử chúng tôi kiên trì trong lý tưởng, đem lại lợi ích cho loài người và tất cả chúng sanh.” . . .

Mùa Đản sanh 2557 - Trọng hạ Quỵ tỵ


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/04/2018(Xem: 6556)
Quan sát, nhìn nhận đúng sự việc, nhà Phật gọi là chánh kiến. Chánh kiến là cách phân biệt bản chất của sự việc tốt hoặc xấu. Trong tiềm thức mỗi người đều có sẵn tính tốt và tính xấu. Ví dụ lòng trung thành và phản bội. Ai cũng có hạt giống trung thành và hạt giống phản bội. Người chồng nếu sống trong môi trường, hạt giống của lòng trung thành được tưới tẩm nuôi dưỡng hàng ngày, thì người chồng sẽ là một người trung thành, nhưng nếu hạt giống của sự phản bội được tưới tẩm nuôi dưỡng hàng ngày, người chồng có thể phản bội
19/04/2018(Xem: 9203)
Audrey Hepburn; nữ tài tử Hollywood nổi danh ở thập niên 1950s, có vẻ đẹp thánh thiện với chiếc cổ thiên nga đã làm cho bao chàng trai mới lớn thời ấy từng ươm mơ dệt mộng. Tình cờ tấm ảnh của nàng đã xuất hiện trên mạng không khỏi làm nhiều người hâm mộ xúc động trước sự tàn phá của thời gian.
31/03/2018(Xem: 6987)
Sống để gặt những gì mình đã gieo và gieo tiếp việc thiện, tích cực tu tập để tiến hóa, có những tái sinh ngày càng tốt hơn, cuối cùng đạt quả vị giải thoát, đi đến chấm dứt sinh tử luân hồi. Đạo Phật tóm gọn trong mấy chữ nhân quả, thiện ác mà thôi. + Chúng ta có tái sinh, có kiếp trước và kiếp sau không? Có rất nhiều câu chuyện trên khắp thế giới về những người chết đi sống lại kể về linh hồn, những người nhớ về kiếp trước của mình như những vị Lạt Ma Tây Tạng, nhà ngoại cảm giao tiếp với linh hồn để tìm được rất nhiều ngôi mộ, v.v Con người được sinh ra từ những nghiệp tốt và xấu mà mình đã gieo từ vô số kiếp. Trong đời này ta buộc phải nhận quả. Để giảm thiệt hại từ những quả xấu và tăng cường quả tốt thì cần phải làm lành lánh dữ việc xấu dù nhỏ cũng không nên làm còn việc thiện dù nhỏ mấy cũng cố gắng làm. Phật nói số người được tái sinh làm người hoặc chư Thiên (thần thánh) nhiều như 2 cái sừng trên đầu con bò, còn số người sinh vào cõi khổ (rơi vào địa ngục, hóa thành
16/03/2018(Xem: 12598)
Video pháp thoai: Kinh Pháp Cú Phẩm Già 01 HT Thích Minh Hiếu giảng 11-03-2018
08/03/2018(Xem: 7841)
Cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn. Tôi nghĩ , như một dấu hiệu của tôn trọng, tôi sẽ đứng để nói chuyện. Cách ấy, tôi cũng có thể thấy thêm những khuôn mặt. Tôi thường diễn tả tất cả chúng ta như những anh chị em. Chúng tađều là những con người giống nhau ở trình độ nền tảng. Chúng ta giống nhau từ tinh thần, cảm xúc, đến thân thể. Ở trình độ vật lý, có những khác biệt nhỏ, như độ lớn của lổ mũi. Lổ mũi của tôi được xem như là một cái mũi lớn. Tôi không nghĩ nó là một cái mũi lớn. Cho nên đó là điều quan trọng. Chúng ta phải nhận ra mỗi người khác như một con người – không có gì khác nhau. Rồi thì, ở trình độ thứ hai – vâng, có những khác biệt về tín ngưỡng, khác biệt về màu da, khác biệt về quốc gia. Tôi nghĩ, ngày nay vấn nạn mà chúng ta đang đối diện là chúng ta nhấn mạnh quá nhiều về tầm quan trọng ở trình độ thứ hai, quên lãng rằng ở trình độ thứ nhất thì chúng ta là những con người giống nhau.
07/03/2018(Xem: 8136)
Lại ngày 8 tháng ba. Mấy ngày nay đã thấy những email, những lời chúc đầy hoa trên mạng để chúc mừng ngày này. Trước 75, hình như ngày này chẳng ai biết tới. Những ngày tháng ba những năm ấy hoặc Lễ Hội tưởng niệm Hai Bà Trưng (6 tháng hai âm lịch), Giỗ Tổ Hùng Vương (10 tháng 3 âm lịch), có ai để ý ngày 8 tháng 3. Thời ấy, đa số phụ nữ trong nam ở nhà lo cho con cái, nếu có đi làm hay ra buôn bán thì trong gia đình vẫn người chồng là trụ cột.
03/03/2018(Xem: 18421)
Vừa qua, bản thảo cuốn sách này, « Con Người và Phật Pháp » được tác giả Lê Khắc Thanh Hoài gởi đến cho tôi với lời đề nghị tôi có vài dòng đầu sách. Tôi có phần e ngại, vì có thể tôi không nắm rõ hết ý tưởng của tác giả và cũng có thể không nêu hết ý nghĩ của mình. Thế nhưng đối với một tác giả, một nữ cư sĩ Phật tử trí thức thuần thành, một nhà văn, một nhà thơ và là một nhạc sĩ mà tôi vẫn lưu tâm, cảm phục, cho nên tôi quên đi phần đắn đo mà mạnh dạn có mấy dòng, gọi là chút đạo tình và lòng trân trọng đối với chị Thanh Hoài.
28/02/2018(Xem: 8457)
Ở đời có những người không đức lại tự cho rằng quá nhiều đức; không tài lại nghĩ mình kỳ tài không ai bằng; làm lợi ích cho người không được bao nhiêu mà nghĩ mình làm quá nhiều; thành tựu không lớn mà nghĩ là thành tựu chưa từng thấy… là bởi “cái tôi” quá lớn. Cái tôi (the Self, the Ego) ấy vượt khỏi giới hạn của thân xác, đóng cọc cắm rào khắp nơi nào nó hướng đến. Nó vô hình nhưng lại mượn cái hữu hình để tự thể hiện sự hiện hữu của nó. Và sự hiện hữu theo cách thế bành trướng, lấn lướt của một cái tôi lớn, làm cho không gian chung quanh chật chội, tù túng. Ngay cả môi trường sống của gia đình, trường học, làng xóm, tổ chức tôn giáo, quốc gia, cho đến thế giới, trước sự hung hăng hãnh tiến, tự tin, tự mãn của một “cái tôi đáng ghét,” (1) sẽ bị ô nhiễm, khó thở. Cái tôi ấy nếu là người bình thường thì chỉ gây khó chịu, hoặc làm trò cười cho hàng thức giả trong vài phút giây; còn như cố gắng giành lấy trách nhiệm lãnh đạo tập thể nữa thì mới là hiểm họa cho nhiều người, trong một
28/02/2018(Xem: 12026)
Why is Buddhism so diverse ? Andrew Williams, I think we can all agree that the reason for the many diverse traditions and paths within Buddhism is that all sentient beings, in one way or another, are different, both mentally and physically, and therefore each individuals needs are also different. The Buddha explained that we sentient beings all have different and limited levels of understanding of this or that, and even if we focus on the very same thing, we will perceive it according to our own perspective. From our own limited viewpoint. We tend to perceive things and others based on our own preconceived ideas and past experiences. It's as if we judge the whole ocean based on the small part of the ocean that we may think we know. The whole sky based on a few clouds.
28/02/2018(Xem: 10411)
Bản Chất của Giáo Dục Đạo Đức Xã Hội_Bạch Mã
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]