Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật pháp

23/12/201306:36(Xem: 8048)
Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật pháp

Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật pháp


Sunil J. Wimalawansa

Trần Khiết Bách dịch

Hoàn thiện cuộc sống nhờ Phật Pháp

Phật giáo không hoàn toàn là một tôn giáo theo cái nghĩa mà từ này vẫn được hiểu , vì Phật giáo không phải là “ một hệ thống tín điều và nghi lễ thờ cúng liên kết bất kể tín đồ nào đó với một chủ tể siêu nhiên ”. Phật giáo không kêu gọi sự tin tưởng mù quáng nơi những ngưới tin theo . Ở đây , sự tin tướng thuần túy bị hạ bệ và được thay thế bởi sự tự tin dựa trên hiểu biết gọi là tín tâm ( hay Saddha trong ngôn ngữ Pali ) , Niềm tin mà người Phật tử đặt vào Đức phật cũng giống như niềm tin của người bệnh đặt vào một thầy thuốc giỏi , hay niềm tin củ người học trò đặt vào người thầy của mình . Một người Phật tử quy y Phật chỉ vì chính đức Phật là người tìm ra và và dạy cho Phật tử ấy con đường giải thoát . Một người Phật tử không quy y Phật với hy vọng là Đức Phật sẽ cứu rỗi mình bằng sự thanh tịnh của Ngài . Đức Phật không bao giờ đưa ra lời bảo đảm ấy . Đức Phật không nhận rằng Ngài có năng lực thanh tẩy mọi cấu uế của kẻ khác . Không ai có thể làm thanh tịnh ai hoặc làm uế nhiễm ai .

Làm rõ mục tiêu của người học Phật

Giáo pháp của Đức Phật nhắm tới việc hướng dẫn con người thoát khỏi những điều bất hạnh và sự đau khổ , đồng thời chỉ cho họ con đường đạt tới hạnh phúc và an lạc cao nhất . Với lòng từ bi vô lượng của Ngài , suốt 45 năm , Đức Phật đã dạy cho toàn thể loài người về nhân và duyên . Mục tiêu của sự giáo huấn ấy là giúp con người có thể hiểu được những hành động nào nên theo và những hành động nào nên tránh . Vậy thì , mục tiêu tối hậu của chúng ta trong lúc học theo giáo pháp của Đức Phật phải là hãy học để phân biệt đươc những lối sống tai hại , gây hủy diệt với những lối sống tốt đẹp , mang lạy lợi ích ; học để phân biệt được những lối sống gây đau khổ với những lối sống đưa tới an lạc thanh bình .

Mục đích của việc học tập và hành trì Phật pháp

Phật giáo là lối sống công bằng mang lại hạnh phúc và an bình cho mọi chúng sinh ; và phương pháp gạt bỏ maoi5 đau khổ và bất hạnh để tìm đến sụ tự giải thoát . Giáo pháp của Đức Phật không giới hạn vào quốc gia nào hay chủng tộc nào , đó là giáo pháp dành cho mọi người . Phật giáo không chỉ là tín ngưỡng hay một niềm tin đơn thuần . Đó là giáo pháp chp toàn thể loài người thuộc mọi thời đại . Mục tiêu của Phật giáo là sự phục vụ vô ngã , là thiện chí , là hòa bình , là sự cứu giúp , và là sự tự do trước mọi đau khổ . Không gây hại và có thiện chí là những yếu tố mà mọi tôn giáo đều nói tới . Nhưng hơn thế nữa , Phật giáo dựa trên những nhuyên lý hòa bình , bình đẳng , hài hòa ; cho nên trong Phật giáo không có chỗ cho lòng ghen tức hay sự bạo động .

Niềm tin của Phật giáo về thiện chí và lòng từ tâm dựa trên sự hy sinh và tinh thần phục vụ để mang lại bình an và hạnh phúc cho người khác . Cho nên , những nguyên lý của tôn giáo nên được áp dụng một cách tích cực nhằm cải thiện phẩm chât cuộc sống cho tất cả mọi chúng sinh . Việc thực hành giáo pháp của Đức Phật sẽ làm phát triển sự thức tỉnh tự nội , lòng từ bi và tuệ giác . Một trong những lý do khiến Phật giáo có sức cuốn hút đối với giới trí thức và những người có trình độ học vấn cao nằm ở chỗ chính Đức Phật đã thực sự khuyên mọi tín đồ đừng tin vào những gì được nghe mà không kiểm chứng giá trị của chúng .

Phật giáo là một tôn giáo cao quý , một nền triết học nơi đó khai thác tối đa sự công chính , sự bình đẳng và sự hòa bình . Chủ đề trung tâm cảu Phật giáo là sự giữ gìn . Giáo pháp của Đức Phật dạy rằng phụ thuộc vào người khác để được cứu giúp là tiêu cực , chỉ có trông chờ vào chính mình mới là tích cực . Giáo pháp ất giải thích thêm rằng phụ thuộc vào người khác có nghĩa là đầu hàng trước sự thong minh , sự thự tin và những nổ lực của người khác . Hơn nữa Phật giáo công nhận sự hiểu biết và những nỗ lực của con người về mọi thành tựu , chứ không công nhận một đấng siêu nhiên nào . Kinh Tương Ưng Niệm Xứ dạy rằng :Trong khi hộ trì cho mình , là hộ trì người khác , trong khi hộ trì người khác là hộ trì cho mình ..Thế nào là trong khi hộ trì người khác là hộ trì cho mình ? Chính là do sự kham nhẫn , do sự vô hại , do lòng từ , do lòng bi mẫn.

Điều quan trọng là phải nhận thức rằng sự cứu giúp theo lời dạy của Đức Phật , là một vấn đề cá nhân . Chỉ có hành giả mới cứu giúp được chính hành giả ; hệt như hành giả tự ăn , tự uống , tự ngủ nghỉ . Giáo pháp của Đức Phật chỉ là phương tiện cho thấy con đướng đúng để thành tựu sự cứu giúp ấy . Đức Phật không hề giảng pháp để cải tạo ai cả . Ngài giảng pháp chỉ để người nghe được giác ngộ . Về phương diện này , Phật giáo không bi quan mà cũng chẳng lạc quan . Phật giáo không khuyến khích con người nhìn vào cuộc đời thông qua những cảm giác thường xuyên biến đổi vì tính bi quan hay sự lạc quan của con người . Phật giáo khuyến khích con người hãy thực tế , hãy học để thấy cuộc đới đúng như nó hiện là .

Phật giáo là hiện thực

Phật giáo có một cái nhìn hiện thực đối với cuộc đời . Phật giáo không giả vờ đẩy chúng ta vào sống trong một thiên đường giả tưởng , cũng không hề dọa dẫm hay khủng bố chúng ta về những sợ hãi tưởng tượng hay những cảm giác tội lỗi . Phật giáo gọi tên một cách chính xác và khách quan ta là gì và thế giới ta đang sống là gì ; đồng thời chỉ cho ta thấy con đường hoàn thiện sự tự do , hòa bình , an lạc và hạnh phúc . Phật giáo hoàn toàn trái ngược với thái độ bất mãn , lo lắng , hối hận và u sầu của tâm thức , thực tế vốn dược coi là trở ngai cho việc thực hiện Chân lý . Mặt khác giáo lý của Đức Phật nhấn mạnh rằng niềm vui ( hay hỷ ) chính là một trong Bảy giác chi , những phẩm chất thiết yếu phải được rèn luyện để thực hiện Niết- bàn .

Một trong những cách để hiểu biết rõ về sự sống là hiểu biết về cái chết , vốn chẳng gì khác hơn sự chấm dứt tạm thời của một sự hiện hữu tạm thời . Tuy nhiên , hầu hết chúng ta đều không thích nghe đến từ “ chết ”. Nhưng dù cho chúng ta có thích hay không , chết là sự kiện chắc thật duy nhất trong cuộc sống của chúng ta , nó đến một cách từ từ . Mặc dù vậy , những hồi ức về cái chết với một thái độ tâm thức đứng đắn có thể mang lại cho con người sự can đảm , sự hiểu biết , và một cái nhìn thấu suốt vào bản chất của sự hiện hữu ; đồng thời phát triển được một sự bình tĩnh khi đối mặt với cái chết . Trong khi người phương Tây tìm cách chinh phục vũ trụ cho những mục đích vật chất , Phật giáo và nền triết học phương Đông cố gắng đạt tới sự hòa hợp với thiên nhiên , với môi trường , với sự thỏa mãn về tâm linh .

Hầu hết những kẻ giàu có trong thế giới ngày nay , mặc dù những của cải và những phương tiện hiện đại của họ , vẫn luôn đau khổ vì sự bấp bênh của cuộc đời , vì những lo lắng và vô số những vấn đề về thân và tâm . Với tất cả tiền bạc và những mối giao tiếp mà họ có , họ không thể tìm được giải pháp cho những vấn đề và sự đau khổ của họ . Ngược lại , một người nghèo nhưng đã học được sự hài lòng có thể hưởng thụ cuộc sống của mình một cách thanh thản , hơn hẳn những người giàu có nhất . Khi đã hài lòng , người ta chẳng có gì để mất và có rất ít lo âu .

Có những kẻ có quá nhiều nhưng vẫn khao khát

Tôi có chút ít mà chẳng tìm kiếm thêm

Vậy thì họ vẫn nghèo tuy họ có quá nhiều thứ

Còn tôi thì giàu với những thứ ít ỏi của mình

Họ nghèo , tôi giàu , họ xin , tôi cho

Họ thiếu , tôi thừa , họ mõi mòn , tôi an vui.

Phật giáo kêu gọi trí tuệ hơn là tình cảm . Phật giáo quan tâm đến phẩm chất của tín đồ hơn là số lượng tín đồ . Nền tảng của Phật giáo là Tứ thánh đế , gồm có Khổ , nguyên nhân của Khổ , sự chấm dứt Khổ ( hay Niết- bàn ) và Con đường ở giữa ( hay Trung đạo ). Nhiều người nghĩ rằng Phật giáo là cả một hệ thống uy nghi , chẳng thể nào có ngu phu , ngu phụ thực hành được . Người khác lại cho rằng chỉ trong các chùa chiền hay tu viện người ta mới có thể thực hành theo đạo Phật . Những hiểu lầm ấy sở dĩ có là vì người ta không hiểu rõ giáo pháp của Đức Phật không chỉ dành cho các vị xuất gia trong các tu viện . Giáo pháp ấy dành cho mọi người bình thường như Tôi và Các bạn . Tứ diệu đếBát chánh đạo, lối sống của Phật giáo , là nhắm tới mọi người . Khi một người hiểu được tinh thần đạo Phật một cách đúng đắn , ngưới ấy có thể thực hành đạo Phật ở bất cứ nơi nào .

Nguồn : Perfecting Life through Buddhism, Sunil J . Wimalawansa Buddhist Channel

Sunil J. Wimalawansalà giáo sư y khoa chuyên về Sinh lý học và Sinh học hệ thống tại Trường Y Khoa Robert Wood Johnson thuộc Đại học New Brunswick , bang New Jersey , Hoa Kỳ ; một trong những người có thành tựu trong việc nghiên cứu điều trị bệnh tiểu đường .

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 127
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4937)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5086)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4434)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4106)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4695)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4158)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3601)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6882)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6956)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5053)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]