Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguyện cho người khác được hạnh phúc

09/12/201306:18(Xem: 7660)
Nguyện cho người khác được hạnh phúc
nguyen-cho-nguoi-khac-hanh-phuc-300x267

Nguyện cho người khác được hạnh phúc 


Nguyễn Thế Đăng

Nguyện là mong cho, cầu mong cho, ước mong rằng…

Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chính ta liền có được hạnh phúc. Tại sao như thế?

- Khi nguyện cho người khác hạnh phúc, chính trong lúc đó tâm ta thoát khỏi những tình cảm tiêu cực như đố kỵ, ích kỷ, ghét bỏ… Khi ấy chúng ta xóa bỏ được, dù chỉ là tạm thời, sự phân biệt chia cách kiên cố giữa ta và người khác. Chính sự thoát khỏi những ràng buộc tiêu cực nặng nề này đưa chúng ta đến miền đất chung của hạnh phúc.

- Với hành động nguyện cho, tâm thức chúng ta được nâng cao và mở rộng. Nói cách khác, tâm thức chúng ta được chuyển hóa một phần từ tiêu cực sang tích cực. Điều này đem lại sự an vui cho tâm.

- Khi nguyện cho người khác được hạnh phúc, chúng ta phải nghĩ đến hạnh phúc an vui chứ không phải khổ đau tranh chấp. Sự nghĩ đến hạnh phúc này làm tâm được thấm nhiễm hạnh phúc.

- Khi mong muốn tốt đẹp cho người khác, sự tốt đẹp ấy có mặt trong tâm ta. Như cầm một bông hoa cho ai, tay ta cũng thấm đôi phần mùi hương của nó, mắt ta cũng thưởng thức được hình sắc của nó. Tóm lại, chúng ta sống bằng những ý tưởng của mình. Sống bằng ý tưởng lạc quan, thiện ý thì có hạnh phúc. Ý tưởng bi quan, ác ý thì phiền não khổ đau.

- Nguyện cho người khác được hạnh phúc làm tuôn trào từ bi hỷ xả. Khai mở từ bi hỷ xả là khai mở nguồn hạnh phúc. Được bao trùm trong nguồn từ bi hỷ xả ấy, chúng ta trải nghiệm mình và người là một, mình và thế giới là một.

Qua vài nhận xét trên, chúng ta thấy cách để có được hạnh phúc an vui mà ít tùy thuộc điều kiện nhất, nghĩa là tự do nhất, là nguyện cho người khác được hạnh phúc. Điều này chỉ tùy thuộc vào tâm chúng ta mà không tùy thuộc vào những điều kiện hoàn cảnh bên ngoài như giàu nghèo, địa vị, rỗi rảnh hay bận rộn, đang phiền não hay đang vui vẻ… Thế nên, nguyện là một quyền lợi sẵn có, không cần ai chế định, cho phép. Nguyện là quyền lợi để có được hạnh phúc bất cứ lúc nào thay vì là một bổn phận mỗi ngày phải tuân thủ. Nguyện là chìa khóa mở ra những kho tàng hạnh phúc chờ đợi được khai thác nằm trong mỗi người, bất kể hoàn cảnh, địa vị, tuổi tác, giàu nghèo…

“Mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc và có được những nguyên nhân của hạnh phúc,
“Mong cho tất cả chúng sanh thoát khỏi khổ đau và những nguyên nhân của khổ đau,
“Mong cho tất cả chúng sanh không bao giờ xa lìa hỷ lạc bao la vượt khỏi mọi khốn khổ,
“Mong cho tất cả chúng sanh luôn luôn ở trong sự buông xả siêu thoát mọi thương ghét”.

Đây là bốn lời nguyện Từ Bi Hỷ Xả. Bất cứ khi nào chúng ta phát khởi những lời nguyện này, chúng ta liền có an vui. Một người muốn tự hoàn thiện thì luôn luôn sống trong nguyện cho người khác được hạnh phúc, bất cứ đang làm gì trong sinh hoạt hàng ngày:

“Khi cho thức uống, thức ăn, y phục, nguyện cho tất cả chúng sanh uống được nước pháp vị…, dứt sự khát ái thế gian, thường cầu trí giác ngộ, lìa cảnh dục, được sự hoan hỷ của pháp. Nguyện cho tất cả chúng sanh được một vị thấu rõ các Phật pháp đều không sai khác. Nguyện cho tất cả chúng sanh được y phục ‘biết hổ thẹn’ để che thân, bỏ lìa tà kiến ác pháp, da thịt mịn màng, nhan sắc tươi sáng, thành tựu cái vui đệ nhất của bậc Giác Ngộ…”.

“Nguyện tất cả chúng sanh rốt ráo ra khỏi những phiền não. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn thân bịnh, được thân Như Lai”.

“Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn tất cả khổ não bức bách, thành tựu năng lực tự tại an vui. Nguyện tất cả chúng sanh lìa hẳn những khổ đau, được tất cả hoan hỷ, dứt hẳn thân khổ được thân thanh tịnh an vui. Nguyện tất cả chúng sanh dứt hẳn các sự khổ, không có lòng oán hận, luôn thương mến nhau…”.

Toàn bộ phẩm Thập hồi hướng, kinh Hoa Nghiêm là những lời nguyện như vậy. Cho đến sự hoàn thiện cao rộng nhất là Mười Hạnh Nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền trong phẩm cuối của kinh Hoa Nghiêm. Mười Hạnh Nguyện này phát khởi từ pháp tánh, lưu xuất từ pháp tánh, nên là một với pháp tánh, nghĩa là trùm khắp vũ trụ; và do đó, chuyển hóa vũ trụ thành pháp giới Hoa Nghiêm.

Một đời sống bình thường của chúng ta càng có nhiều ‘nguyện cho’ thì càng được thăng hoa thành hạnh phúc. Đời sống của chúng ta càng thấm đẫm những nguyện cho thì đời sống ấy càng thấm đẫm hạnh phúc. Cuộc đời của chúng ta càng ngày càng giàu có những nguyện cho này; càng ngày càng giàu có hạnh phúc. Mỗi người chúng ta đều tự do xông ướp đời mình bằng những nguyện cho, để được sống trong “đại dương hạnh phúc vì lợi lạc cho tất cả những gì đang sống”:

Nguyện tôi là người bảo vệ cho những ai không có sự bảo hộ. Là người hướng dẫn cho những ai đang đi trên đường. Với những ai muốn băng qua dòng sông,
Nguyện tôi là một con thuyền, một chiếc bè, một cây cầu.
Nguyện tôi là một hòn đảo cho những người mong mỏi bến đậu,
Một ngọn đèn cho những ai mong ngóng ánh sáng, Là một cái giường cho những ai cần đặt lưng ngơi nghỉ. 
Nguyện tôi là một tôi tớ cho những ai cần sai bảo. 
Nguyện tôi là một viên ngọc như ý, một cái bình đáp ứng những mong muốn,
Một lời thần chú, và một cây thuốc. 
Nguyện tôi là một cây ban điều ước muốn, Là con bò ước cho tất cả chúng sanh.
Cũng như đất và những nguyên tố khác, Tồn tại như hư không tồn tại
Cho vô số chúng sanh đang sống
Nguyện tôi là nền tảng và phương tiện cho đời sống của họ.
Như thế, đối với bất cứ vật gì đang sống
Trong khắp không gian mười phương
Nguyện tôi là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng của họ
Cho đến khi tất cả họ vượt qua khỏi những biên giới của khổ đau.

(Đi vào Bồ tát hạnh của Shantideva, chương 3)

Được làm một cây thuốc, một viên ngọc như ý, một cái bình đáp ứng những mong muốn, làm bốn nguyên tố đất nước lửa không khí thiết yếu cho sự sống của chúng sanh, là sự nuôi sống và chất bổ dưỡng cho tất cả những gì đang sống…, điều đó là hạnh phúc lớn nhất mà một con người có thể ước mong (nguyện) và thực hiện (hạnh). ■

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo 145

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2021(Xem: 4945)
Không nói được tiếng Tây Tạng và chưa bao giờ dịch tác phẩm nào nhưng Evans-Wentz được biết đến như một dịch giả xuất sắc các văn bản tiếng Tây Tạng quan trọng, đặc biệt là cuốn Tử Thư Tây Tạng ấn bản năm 1927. Đây là cuốn sách đầu tiên về Phật giáo Tây Tạng mà người Tây Phương đặc biệt quan tâm. Ông Roger Corless, giáo sư Tôn Giáo Học tại đại học Duke cho biết: “Ông Evans-Wentz không tự cho mình là dịch giả của tác phẩm này nhưng ông đã vô tình tiết lộ đôi điều chính ông là dịch giả.”
15/05/2021(Xem: 5089)
Ngay sau tác phẩm Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, người đọc lại được đón đọc Vua Là Phật - Phật Là Vua của nhà văn Thích Như Điển. Đây là cuốn sách thứ hai về đề tài lịch sử ở thời (kỳ) đầu nhà Trần mà tôi đã được đọc. Có thể nói, đây là giai đoạn xây dựng đất nước, và chống giặc ngoại xâm oanh liệt nhất của lịch sử dân tộc. Cũng như Mối tơ vương của Huyền Trân Công Chúa, tác phẩm Vua Là Phật - Phật Là Vua, nhà văn Thích Như Điển vẫn cho đây là cuốn tiểu thuyết phóng tác lịch sử. Nhưng với tôi, không hẳn như vậy. Bởi, tuy có một số chi tiết, hình ảnh tưởng tượng, song dường như rất ít ngôn ngữ, tính đối thoại của tiểu thuyết, làm cho lời văn chậm. Do đó, tôi nghiêng về phần nghiên cứu, biên khảo, cùng sự liên tưởng một cách khoa học để soi rọi những vấn đề lịch sử bấy lâu còn chìm trong bóng tối của nhà văn thì đúng hơn. Ở đây ngoài thủ pháp trong nghệ thuật văn chương, rõ ràng ta còn thấy giá trị lịch sử và hiện thực thông qua sự nhận định, phân tích rất công phu của
15/05/2021(Xem: 4439)
Ấm ma là hiện tượng hóa ngôn ngữ. Trong kinh Lăng Nghiêm nói đến 50 ấm ma là nói đến biến tướng của nghiệp thức, của các kiết sử thông qua lục căn từng giao tiếp với lục trần trên nền tảng “ sắc-thọ-tưởng-hành-thức”.
15/05/2021(Xem: 4111)
Đọc xong tác phẩm nầy trong một tuần lễ với 362 trang khổ A5, do Ananda Viet Foundation xuất bản năm 2017, Bodhi Media tái xuất bản tại Hoa Kỳ trong năm 2020 và tôi bắt đầu viết về Tác phẩm và Tác giả để gửi đến quý độc giả khắp nơi, nếu ai chưa có duyên đọc đến. Nhận xét chung của tôi là quá hay, quá tuyệt vời ở nhiều phương diện. Phần giới thiệu của Đạo hữu Nguyên Giác gần như là điểm sách về nhiều bài và nhiều chương quan trọng trong sách rồi, nên tôi không lặp lại nữa. Phần lời bạt của Đạo hữu Trần Kiêm Đoàn cũng đã viết rất rõ về sự hình thành của Gia Đình Phật Tử Việt Nam ở trong nước, từ khi thành lập cho đến năm 1975 và Ông Đoàn cũng đã tán dương tuổi trẻ Việt Nam cũng như tinh thần học Phật, tu Phật và vận dụng Phậ
10/05/2021(Xem: 4697)
Chỉ có bốn chữ mà hàm chứa một triết lý thâm sâu ! Chỉ có bốn chữ mà sao chúng sanh vẫn không thực hành được để thoát khỏi sự khổ đau ? Nhưng cũng chỉ bốn chữ này có thể giúp chúng sinh phá được bức màn vô minh, đến được bến bờ giác ngộ, thoát vòng sinh tử !
08/05/2021(Xem: 4159)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn, và cái không biết luôn luôn là cái gì của vô cùng tận. Cũng là một cách chúng ta tới với thế giới này như một hài nhi, rất mực ngây thơ với mọi thứ trên đời. Và vì, bài này được viết trong một tỉnh thức với tâm không biết, tác giả không đại diện cho bất kỳ một thẩm quyền nào. Độc giả được mời gọi tự nhìn về thế giới trong và ngoài với một tâm không biết, nơi dứt bặt tất cả những tư lường của vô lượng những ngày hôm qua, nơi vắng lặng tất cả những mưu tính cho vô lượng những ngày mai, và là nơi chảy xiết không gì để nắm giữ của vô lượng khoảnh khắc hôm nay. Khi tỉnh thức với tâm không biết, cả ba thời quá, hiện, vị lai sẽ được hiển lộ ra rỗng rang tịch lặng như thế. Đó cũng là chỗ bà già bán bánh dẫn Kinh Kim Cang ra hỏi ngài Đức Sơn về tâm của ba thời.
04/05/2021(Xem: 3606)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra ở quê hương ngài và cố gắng để có được sự giúp đở cho người dân của ngài. Ngài cũng phải chạm trán với sự tuyên truyền của truyền thông Tàu Cộng rằng ngài đã bị bắt cóc. Tuy nhiên, nhu cầu thiết yếu nhất là để bảo đảm nhà ở và thực phẩm cho những người Tây Tạng đã đi theo ngài lưu vong. Ngài đã hướng đến chính phủ Ấn Độ, và họ đã không làm ngài thất vọng. Trong thực tế, Ấn Độ cuối cùng đã tiếp nhận hơn một trăm nghìn người tị nạn, cung cấp chỗ ở, và nuôi dưỡng họ, cho họ làm việc, và thiết lập những ngôi trường đặc biệt cho trẻ em Tây Tạng. Những tu viện Phật giáo Tây Tạng cũng được xây dựng ở Ấn Độ và Nepal.
30/04/2021(Xem: 6885)
Thưa Tôi. Hôm nay là ngày sinh nhật của Tôi, xin được phép thoát ra khỏi cái tôi để nhìn về tôi mà phán xét và đưa ra cảm nghĩ. Hình dạng tôi đã già rồi, tóc đã bạc hết cả đầu. Tôi đã trải qua một thời gian dài sinh sống làm việc và cuối đời nghỉ hưu. Tôi đã bắt đầu thấm thía cái vô thường của thời gian mang lại. Tôi cũng đã thấm thía cái sức khỏe đã đi xuống nhanh hơn đi lên. Tôi cũng đã thấm thía tình đời bạc bẽo cũng như tình cảm (Thọ) là nỗi khổ đau của nhân sinh. Tôi cũng đã hiểu rõ thế nào là ý nghĩa đích thực của cuộc sống, đó là bất khả tương nghị không thể thốt lên thành lời. Chỉ có im lặng là đúng nghĩa nhất. Ngày xưa khi lục tổ Huệ Năng của Thiền tông chạy trốn mang theo y bát thì thượng tọa Minh rượt đuổi theo để giết lấy lại. Đến khi gặp mặt thì lục tổ mang y bát ra để trên tảng đá rồi núp dưới tảng đá bảo thượng tọa Minh hãy lấy y bát đi mà tha chết cho người. Thượng tọa Mình lấy bát lên, nhắc không lên nổi vì nó quá nặng bèn sợ hãi mà quỳ xuống xin lục tổ tha c
30/04/2021(Xem: 6960)
Thiền Uyển Tập Anh chép Đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 – 1011) tu ở chùa Phật Đà, Thường Lạc nay là chùa Đại Bi núi Vệ Linh Sóc Sơn, Hà Nội. Ngài thuộc thế hệ thứ 4 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngài người hương Cát Lợi huyện Thường Lạc, nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội, thuộc dòng dõi Ngô Thuận Đế (Ngô Quyền). Theo Phả hệ họ Ngô Việt Nam, Thiền sư Ngô Chân Lưu tên huý là Xương Tỷ, anh trai Thái tử - Sứ quân Ngô Xương Xý, con Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, cháu đích tôn của Ngô Vương Quyền. Ngài dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tánh tình phóng khoáng chí khí cao xa, có duyên với cửa Thiền từ năm 11 tuổi.
27/04/2021(Xem: 5058)
Tánh Không ra đời một thời gian dài sau khi đức Phật Nhập diệt do Bồ tát Long Thọ xiển dương qua Trung Quán Luận. Mặc dầu khi còn tại thế đức Phật có nói về Tánh Không qua kinh A hàm và Nikaya. Nơi đây Phật có nói về tánh xuất gia của hành giả đi tu. Hạng người tâm xuất gia mà thân không xuất gia thì gọi là cư sĩ. Và hạng người tâm và thân xuất gia thì gọi là tỳ kheo. Tánh Không cũng có hiện hữu trong kinh Tiểu không bộ kinh trung bộ. Phật có dạy: nầy Ananda, Ta nhờ ẩn trú Không nên nay ẩn trú rất nhiều. Kế tiếp Phật có dạy trong kinh A hàm về các pháp giả hợp vô thường như những bọt nước trôi trên sông: sự trống không của bọt nước.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]