Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thầy

19/11/201306:29(Xem: 9105)
Thầy

sa_mon
Có người nhiều phước báu thì tìm ra ngay người Thầy tâm linh của mình từ lúc còn rất nhỏ, có người thì phải đi lòng vòng mất quá nhiều thời gian, có người lại quá bất hạnh mãi đến khi tóc đã bạc, hay nhắm mắt rồi mới biết đến Phật pháp thì đã quá muộn rồi.

Có lẽ không ở đâu trên thế giới chữ Thầy lại có nhiều danh từ như ở Việt Nam.

Thầy : có nhiều vùng miền ở vùng thôn quê phía Bắc gọi Thầy là Cha (Cha đẻ) ; Thầy dạy chữ (Thầy giáo); Thầy thuốc (Bác sĩ) ; Thầy dạy nghề (truyền nghề) ; Thầy Tâm Linh (các vị tu sĩ) và có cả thầy bói, thầy cúng, thầy phong thủy …

Và đã là con người, trong một kiếp người có lẽ không ai là chưa gặp một người Thầy nào bao giờ cả, kể cả những người chưa bao giờ cắp sách đến trường hay không một lần biết gọi nhưng vẫn có Thầy và gặp Thầy đấy. Bạn cứ ngẫm mà xem !

Là người Việt Nam cứ mỗi độ đông về hay ở phương Nam không có mùa đông đi nữa thì cứ đến tháng 11 hàng năm người người ai cũng nhớ về một người Thầy nào đó của mình cho dù người Thầy ấy hiền từ, nhân hậu, dữ dằn hay là Thầy ‘’máy chém’’* hay một người Thầy khó tính, khắt khe, nghiêm khắc… với trò của mình thì kỷ niệm vui buồn ấy cũng ùa về một thời để mà nhớ.

Nghĩ suy về chữ Thầy thì đúng là Thầy chỉ là một cái nghề, nhưng là ngành nghề đặc biệt, một nghề đòi hỏi hội tụ của nhiều yếu tố tính nhân văn để làm nghề hơn những ngành nghề khác, đó là nghề nhà giáo (dạy chữ, dạy nghề), nghề Thầy thuốc( cứu người), đó là những ngành nghề cao quí nhất, được mọi người tôn vinh. Rất nhiều người, cứ nghĩ rằng trong mỗi đời người chỉ cần học, cần gặp và có hai người Thầy ấy( Thầy giáo, thầy thuốc) ở bên đã là đủ lắm rồi, cuộc đời mình đã chắc chắn đủ lông cánh bay xa, bay cao và phía trước là cả một bầu trời ngập tràn hạnh phúc.

Nhưng cuộc đời đâu có đơn giản thế, mong muốn của con người là vô cùng tận không ai ít muốn, biết đủ cả. Vì vậy mà người có quyền lực cao nhất là vua của một nước rồi vẫn chưa đủ, lại muốn làm vua của nhiều nước khác và tham vọng đến bá chủ của thiên hạ. Người giầu rồi thì cứ muốn giầu thêm nữa, thêm nữa ; ai cũng muốn mình là chủ sở hữu của người này, người kia, của đất nước này, của món đồ kia. v.v…Chính vì vậy mà trên thế giới từ khi con người có mặt ở hành tinh này không bao giờ thôi bớt xung đột và ham muốn, dẫn tới chiến tranh tàn khốc, không bao giờ bớt ngừng khai thác tài nguyên, thiên nhiên của trái đất một cách không khoa học và thiếu khôn ngoan dẫn đến trái đất bị thương nghiêm trọng.

Con người sinh sống trong một thời đại mà khoa học đang ở mức tột đỉnh, sự tiện ích của các sản phẩm khoa học mang đến cho loài người trong một thập niên qua là vô cùng to lớn mà không ai có thể phủ nhận. Nhưng bên cạnh đó thì tính nhân văn trong mỗi con người trên khắp thế giới lại đang bị xói mòn và tan chảy theo tỉ lệ ngược lại. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc con người ngày càng khổ đau hơn, Chủ nghĩa hưởng thụ và sống thực dụng, sống nhanh đang làm cho lòng thương cảm của con người bị chai lỳ đi, trơ ra trước nỗi bất hạnh của nhân loại. Ta thản nhiên đi, thản nhiên bước qua, ta rụt tay vào trước tiếng kêu cứu và bàn tay đang đưa ra van xin ta cứu giúp của đồng loại.

Những người có quyền lực, có nhiều tiền trong tay cũng không hề tìm được hạnh phúc hay được an ổn, bất an luôn rình rập, nói chi đến người nghèo khổ, bệnh tật. Nỗi khổ niềm đau cứ bủa vây ta, giam nhốt ta mà không sao thoát ra được. Chỉ khi đó, có nhiều người còn đủ tỉnh táo, mới hốt hoảng đi tìm một người Thầy đó là người Thầy tâm linh, những người Thầy đã và đang đưa chân lý Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo của đức Phật, đế hướng dẫn cho con người thoát khỏi và vượt qua vòng tục lụy mà 2600 năm trước đức Phật đã nhận thấy.

Nhưng không phải ai cũng tìm được những người Thầy chân chính, những người Thầy tâm linh để cho ta nương tựa, để mang Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo để ta đi, để ta vượt qua được những bế tắc, nghịch cảnh hay tư vấn cho ta những phương thức thực tập để ta vượt qua được nỗi khổ niềm đau, để ta đứng dậy đi tiếp và đi vững chắc trên bước đường đời đang chờ ta ở phía trước.

Có người nhiều phước báu thì tìm ra ngay người Thầy tâm linh của mình từ lúc còn rất nhỏ, có người thì phải đi lòng vòng mất quá nhiều thời gian, có người lại quá bất hạnh mãi đến khi tóc đã bạc, hay nhắm mắt rồi mới biết đến Phật pháp thì đã quá muộn rồi.

Quan niệm về những người Thầy tâm linh trong thập niên đầu thế kỷ 21 cũng phải cần thay đổi : điều kiện cần và đủ để trở thành một người Thầy tâm linh trong một thế giới toàn cầu này thì phải có trình độ hơn những người mà họ muốn được nghe hướng dẫn. Thầy tâm linh giờ đây không chỉ là gõ mõ, thuộc kinh là đủ và chỉ biết dừng lại ở lời khuyên người tìm đến bằng những câu quen thuộc ‘’ Con về chịu khó niệm Phật, đừng làm việc ác, chịu khó làm lành… ‘’như vậy vẫn chưa đủ so với những gì mà thế hệ trẻ bây giờ đang đòi hỏi, đang muốn khám phá, đang muốn tìm tòi, đang muốn lựa chọn cho mình một con đường, một tôn giáo vượt trội so với các tôn giáo khác về logic khoa học, để nương tựa trong một thế giới mà mọi sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ.

Để đạo Phật hòa nhập với cuộc sống và thu hút giới trẻ, giới trí thức đến với đạo Phật. Có rất nhiều Thầy ngày đêm không biết mệt mỏi, trau dồi kiến thức tu học để có trí tuệ hơn hẳn người cần được tư vấn, giúp đỡ một cái đầu để trở thành một người Thầy tâm linh đúng nghĩa, đồng thời phải tu tâm, giữ mình trong sạch như người đời nghĩ tưởng : tu sĩ phải là một người rất chuẩn mực về đạo đức thì mới xứng đáng làm người Thầy tâm linh.

Để làm một Thầy giáo, một Thầy thuốc chân chính đã khó làm một người Thầy tâm linh còn khó gấp vạn lần. Với chỉ một chữ Thầy mà đức Phật đã dạy phải kính Thầy như kính Phật, kính Pháp.

Nhân ngày 20/11 Ngày nhà Giáo Việt Nam tất cả những ai đã nhận Phật làm Thầy điều đó cũng có nghĩa là đã nhận các vị tu sĩ (những người xuất gia) làm Thầy thì hãy cùng chắp tay kính lạy các Thầy với tất cả tấm lòng biết ơn và ngàn lần xin cám ơn Thầy, người Thầy tâm linh của chúng con.

Sài Gòn tháng 11 năm 2013

Giác Hạnh Hoa

Nguon: daophatngaynay.com/vn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5613)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4313)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9149)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5478)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5115)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5706)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6201)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5206)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]