Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một Chút Gì Khó Quên (Thục Đức)

10/11/201319:16(Xem: 28381)
Một Chút Gì Khó Quên (Thục Đức)

Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (18)

Một Chút Gì Khó Quên!

Thời gian thắm thoát đã gần 12 năm, vợ chồng tôi đã đặt chân đến xứ Úc Kangaroo này. Biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn xảy ra trong thời gian qua.

Lần đầu tiên tới Úc vợ chồng tôi thật bỡ ngỡ, lo âu, hồi hộp và sợ sệt. Với một đất nước to lớn và đông dân cư so với New Zealand nhỏ bé và thưa thớt cư dân. Vợ chồng tôi cảm thấy mình giống như một hạt cát giữa sa mạc. Cũng may do nhân duyên vợ chồng tôi quen biết được Thầy Tâm Phương tại New Zealand qua buổi Lễ Khánh Thành chùa Giác Nhiên, cho nên vợ chồng tôi đã nhờ một người bạn đưa đến Tu Viện Quảng Đức để viếng thăm Thầy, nhưng vợ chồng tôi lại không biết địa chỉ và người bạn vợ chồng tôi cũng không biết TVQĐ ở nơi mô? Vợ chồng tôi đã diễn tả ngôi chùa đó là một trường tiểu học, thế là người bạn đã chở vợ chồng tôi đến một ngôi chùa cũng là trường tiểu học, nhưng không phải TVQĐ mà là Chùa Linh Sơn. Từ Chùa Linh Sơn chúng tôi tìm ra được TVQĐ. Khi tới nơi Thầy trò gặp nhau rất vui mừng, sau một lúc hàn huyên tâm sự, vợ chồng tôi cho Thầy biết vợ chồng tôi có ý định sống tại Úc này.

Thầy dẫn chúng tôi tham quan cảnh xung quanh Tu Viện. Lúc đó những dãy phòng học vẫn còn nguyên vẹn, Thầy hướng dẫn chúng tôi vào một sảnh đường với một gian phòng rộng lớn chứa độ 100 người, xung quanh được dựng bằng tôn và trên nóc nhà cũng lợp bằng tôn, đó là chánh điện tạm thời để Phật tử cũng như Thầy có nơi để Lễ bái, tu học v.v… Sau khi Lễ Phật xong Thầy hướng dẫn chúng tôi đi dạo bên ngoài. Ngoài sân chùa có rất nhiều cây cổ thụ to lớn, mặc dù trời đang độ nắng gắt nhưng nhờ những bóng cây đã làm dịu mát đi phần nào. Chùa lúc đó rất đơn sơ ngoại trừ cổng Tam Quan hùng vĩ đứng hiên ngang giữa một góc trời, ngoài ra còn có cảnh vườn Lộc Uyển nơi Hoàng Hậu Ma Gia sanh Thái Tử Tất Đạt Đa rất dễ thương. Trời cũng đã xế trưa, Thầy mời chúng tôi ở lại dùng cơm. Tại nhà bếp vợ chồng tôi thấy có thêm một Thầy, một Sư Cô và hai chú điệu. Thầy Trụ Trì giới thiệu bào đệ của Thầy là Thầy Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên và hai chú Nguyên Chí và Quảng Trí đang tập sự xuất gia.

Vài ngày sau,Thầy đã làm vợ chồng tôi giựt mình khi bước chân vào nhà thấy Thầy đã đến thăm vợ chồng tôi tự lúc nào, có cả Hòa Thượng Huyền Tôn làm vợ chồng tôi xúc động vô cùng, đáng lẽ ra vợ chồng tôi phải đến đảnh lễ Hòa Thượng trước, đằng này vợ chồng tôi chưa kịp viếng thăm HT vì không có phương tiện và bạn vợ chồng tôi bận nên vợ chồng tôi tính chờ đến cuối tuần rồi sẽ đến thăm sau. Vợ chồng tôi thật sự vui mừng không có ngôn từ nào diễn tả được, hai Thầy đã làm vợ chồng tôi bối rối, vì chỗ vợ chồng tôi ở là một căn flat nhỏ nằm tận lầu hai chỉ có 2 phòng ngủ mà tới 5 người ở lận. Có lẽ Thầy nhìn thấy được điểm đó nên Thầy đã mở lời nói là chúng tôi có thể lên chùa ở tạm, lúc đó vợ chồng tôi không bỏ qua cơ hội này nên đã nói ok liền. Ngày hôm sau, vợ chồng tôi dọn lên chùa ở, vợ chồng tôi cũng hơi dè dặt và e ngại một chút, nhưng hai Thầy và Sư Cô rất cởi mở và nhiệt tình cho nên vợ chồng tôi cảm thấy thoải mái và tự nhiên hơn. Mấy ngày đầu tiên vợ chồng tôi chưa quen cảnh sống của Thiền Môn vì 4 giờ sáng là Thầy Tâm Phương đã thức dậy gióng chuông, 5g30 Thầy Nguyên Tạng, Sư Cô Hạnh Nguyên cùng hai chú tụng Kinh Lăng Nghiêm, thật tình lúc đó vợ chồng tôi mệt mỏi vô cùng vì tuổi còn trẻ, cái tuổi ham ăn, ham ngủ như vợ chồng tôi mà thức dậy sớm là một cực hình đối với vợ chồng tôi, nhưng lần lần vợ chồng tôi cũng quen dần không ngủ nướng nữa. Lần đầu tiên vợ chồng tôi tụng Kinh Lăng Nghiêm nửa mê, nửa tỉnh vợ chồng tôi không tài nào theo kịp, vợ chồng tôi đã dùng ngón tay cố gắng dò theo từng chữ nhưng cũng không thể nào bắt kịp được. Vợ chồng tôi complaint với Thầy, “Sao Thầy tụng nhanh quá làm sao con theo kịp?”, Thầy mỉm cười và nói: “Con cố gắng học đi rồi từ từ sẽ quen và đọc được thôi”.Vợ chồng tôi cố gắng học nhưng có mấy câu thôi mà vợ chồng tôi cứ quên trước quên sau cho nên vợ chồng tôi bỏ cuộc và để tùy duyên. Sau khi tụng thời Lăng Nghiêm xong Thầy trò chúng tôi làm vệ sinh xung quanh chùa, người thì làm hương đăng, người thì quét rác, tưới cây v.v….

Thầy Nguyên Tạng đang trong mùa school holidays cho nên mỗi ngày vào lúc 2giờ Thầy dạy cho hai chú tập sự xuất gia về giáo lý và nghi lễ. Mỗi tối vào lúc 6 giờ là thời công phu chiều, Thầy hướng dẫn chúng tôi cùng khoảng trên dưới 10 Phật tử tụng kinh bái sám mỗi ngày, khi thì tụng Kinh Pháp Hoa, khi thì Lương Hoàng Sám v.v…Chúng tôi lúc đó rất tinh tấn và siêng năng, thậm chí có đôi lúc Thầy bận việc chúng tôi vẫn duy trì buổi công phu chiều, tự chia ra người làm chủ lễ, người gõ mõ, người đánh chuông. Thường thường sau buổi Lễ xong chúng tôi thường tham khảo, đàm đạo và chia sẻ khuyến tấn lẫn nhau. Hầu hết tất cả chúng tôi đều mang tâm niệm nếu đủ duyên và cơ hội đến là chúng tôi sẽ “khăn gói lên đường tầm sư học đạo”.

Sau một thời gian sinh hoạt trong chùa, tình Thầy trò, huynh đệ gắn bó và sát cánh bên nhau cho nên chúng tôi đặt “danh hiệu” cho hai Thầy để dễ phân biệt trong tiếng gọi thân thương là Thầy Lớn và Thầy Nhỏ. Có một lần Thầy Lớn đã nói với chúng tôi rằng:

“Nhất niên Phật hiện tiền; Nhị niên Phật ngoài hiên; Tam niên Phật thăng thiên.”

Thầy hy vọng chúng tôi sẽ không như vậy mà luôn giữ mãi tâm Phật như thuở ban đầu và khuyến tấn chúng tôi cố gắng tu hành ngày càng tinh tấn hơn.

Thấm thoát đã hai tháng trôi qua từ khi vợ chồng tôi ở trong chùa, chỉ còn vài ngày nữa là Tết Nguyên Đán và đây cũng là cái Tết đầu tiên ở Úc mà vợ chồng tôi được hưởng với bầu không khí tuy không náo nhiệt như ở Việt Nam nhưng cũng đủ làm ấm lòng, đỡ nhớ quê nhà của người con Phật sống tha phương nơi xứ lạ quê người. Thầy Lớn đã chuẩn bị trồng bông Vạn Thọ từ mấy tháng trước, rất tội nghiệp cho Thầy vì lúc đó tài chính còn eo hẹp, chùa rất nghèo cho nên Thầy cùng vài anh Phật tử phải lặn lội vào Farm xin phân bò, phân ngựa…rất hôi và dơ bẩn để về bón cho cây Vạn Thọ được tốt hơn, chứ tiền đâu để mua phân hóa học mà bón cho cả 100 chậu chứ? Mặc dù công việc bận rộn trong mấy ngày cận Tết, nhưng nhìn gương mặt ai ai cũng vui vẻ hăng say làm việc mà quên đi sự mỏi mệt. Riêng về phần các anh chị em huynh trưởng gia đình Phật tử Quảng Đức và các Cô Giáo Bồ Đề Việt ngữ thì lo phần dạy múa, ca, kịch, múa lân, làm nhiều trò chơi để các em có thể vui chơi trong dịp đón giao thừa v.v…

Mỗi năm đến rằm tháng Giêng, TVQĐ thường tổ chức hành hương thập tự, năm đó cũng là năm đầu tiên vợ chồng tôi tham gia chuyến hành hương này. Lúc đó TVQĐ chỉ có 3 chiếc xe Bus khởi hành thôi chứ không phải như năm nay tới 8 chiếc xe Bus lận. Tối hôm đó vợ chồng tôi không sao chợp mắt được có lẽ vì nôn nóng trời mau sáng để đi. Vì không ngủ được tôi thức dậy và tản bộ ra ngoài. Bỗng nhiên vợ chồng tôi ngửi được mùi tương kho rất thơm và nghe tiếng động nhỏ dưới bếp, nhìn đồng hồ vợ chồng tôi thấy mới có 4 giờ thôi, vợ chồng tôi ngạc nhiên giờ này ai xuống bếp nấu ăn sớm quá? Vợ chồng tôi nghĩ mình còn nửa mê nửa tỉnh cho nên nhầm lẫn chăng? Chúng tôi nhè nhẹ đi xuống bếp và chúng tôi chợt giựt mình thì ra là Thầy Lớn đang kho tương hột (tương này do chính Thầy làm, ủ cả năm qua) để cho phái đoàn hành hương của chúng tôi dùng trưa hôm đó. Lẽ ra chúng tôi phải xuống bếp phụ Thầy nhưng hai hàng nước mắt chúng tôi cứ chảy dài trên má nên chúng tôi bỏ vào phòng…

Đúng 8 giờ Thầy Nhỏ hướng dẫn phái đoàn chúng tôi lên đường, một số anh chị em phải “hy sinh” ở lại để cùng Thầy Lớn đón tiếp các phái đoàn hành hương khác viếng thăm chùa; khi chúng tôi đến viếng thăm các chùa, Thầy Nhỏ hướng dẫn chúng tôi tụng một thời kinh ngắn, sau đó giới thiệu sơ lược về ngôi chùa cũng như vị Trụ Trì tại bổn tự, đồng thời cũng không quên giảng một thời pháp ngắn. Đến xế trưa chúng tôi dừng lại một ngôi chùa Tàu ở trên đồi Farm, xung quanh cây cỏ, hồ nước và xa xa có vài chú ngựa, phong cảnh rất hữu tình. Chúng tôi bày thức ăn trưa tại đó và Thầy trò chúng tôi ăn uống vui vẻ và rất là ngon miệng nhờ có tương hột kho mà Thầy Lớn đã kho sáng nay, thật ngon tuyệt cho nên cơm canh rau cải gì đều hết sạch.

Sau gần 4 tháng ở chùa, vợ chồng tôi phải dọn ra ngoài vì đã tìm được nơi cư ngụ, nhưng khi về đến nhà mà lòng vợ chồng tôi lại nhớ đến chùa do đó vợ chồng tôi cứ đi đi về về và tiếp tục ở trên chùa nhiều hơn ở nhà trong suốt tháng đầu. Sau gần một năm sinh sống tại Úc cũng như sinh hoạt tại TVQĐ, nhóm Phật tử trẻ tuổi của chúng tôi mỗi người mỗi nơi đi theo con đường lý tưởng và ước nguyện của mình, trong nhóm chúng tôi đã có hai người giác ngộ được và đeo đuổi lý tưởng của mình, nay đã thọ Tỳ Kheo được nhiều năm. Chỉ có bọn con gái chúng tôi lúc ban đầu đều có ý tưởng và mong muốn như vậy, nhưng vì do nghiệp duyên còn ràng buộc, thiếu dũng mãnh và thiếu phước cho nên thay vì xuất gia, bọn chúng tôi lại xuất giá theo tiếng gọi của thế gian.

Melbourne mùa Phật Đản 2010

Đệ tử Thục Đức

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5608)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9144)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5474)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5098)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5695)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6194)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5202)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]