Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Diễn văn Khai Mạc (TT Tâm Phương)

10/11/201313:19(Xem: 30928)
Diễn văn Khai Mạc (TT Tâm Phương)

tuvienquangduc_3


Diễn Văn Khai Mạc
Mừng Chu Niên 20 năm & Khánh Thành Bảo Tháp Tứ Ân

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Ngưỡng bạch hiện tiền Chư Tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni.

Kính thưa chư liệt vị lãnh đạo Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, quí Cơ Quan Truyền Thông, Phát Thanh, Báo Chí, quí Thân Hào Nhân Sĩ, quí Ân Nhân Đồng Hương Phật tử xa gần thân mến.

Lời đầu tiên chúng con xin thành tâm đảnh lễ đón mừng sự quang lâm chứng minh của hiện tiền Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni.

Chúng tôi cũng hân hoan đón chào sự có mặt thâm tình của quí vị lãnh đạo Cộng Đồng, Hội Đoàn, Đoàn Thể, quí Cơ Quan Truyền Thông, Phát Thanh, Báo Chí, quí Thân Hào Nhân Sĩ, quí Ân Nhân, Thân Hữu, đồng kính quí Đồng Hương Phật tử đã vì thâm tình của người con Việt xa xứ, vì đạo tình dân tộc mà chư liệt vị đồng có mặt cùng với chúng tôi vui mừng buổi đại lễ hôm nay.

Kính thưa Chư Liệt Vị, 30 năm của những người con Việt lưu vong trên xứ người qua biến cố lịch sử của mùa xuân 1975. Lần lượt từng đoàn người tìm đường vượt biển vì lý tưởng tự do dân chủ, trong đó có nhiều Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni cũng đã ra đi. Trong số đó, chúng tôi là Tỳ kheo Thích Tâm Phương cũng cùng số phận với những con tàu lênh đênh trên biển Đông nhiều ngày để tìm về bến tự do.

Hồi tưởng lại, giữa mùa hè năm 1986, chúng tôi cùng 10 vị Tôn Đức kiết giới an cư tại Chùa Liên Hoa thuộc vùng kinh tế mới ở Hố Nai, Long Thành. Ngôi Chùa tranh vách đất nằm giữa miếng đất rộng hơn 20.000 mét vuông, chung quanh bao bọc với những luống mì xanh mướt của một vùng đất vừa khai hoang, hòa quyện cùng hàng cây bạch đàn dài hun hút hơn 200 mét dẫn vào sân chùa trơ trọi với cái giếng nước bằng đất có hai cây gỗ rừng gác ngang miệng giếng, mà ngày ngày quí Thầy đều ra đây đứng làm điểm tựa để xách lên từng gầu nước để nấu ăn, tắm rửa và tưới cây.

Xa xa bên kia đồi là một mái tranh cũng tỏa khói lam chiều mỗi khi hoàng hôn buông xuống, cũng từng nhịp mõ nhặt khoan của chú tiểu công phu chiều trong ngôi Bồ Đề Lan Nhã Tự.

Dọc theo ngọn đồi Lan Nhã Tự này là một con suối nhỏ chảy róc rách, dòng nước trong ngần dẫn tới bờ Diệu Pháp Tự, là một ngôi Chùa Ni do Sư Bà Diệu Không khai sơn rồi giao lại cho đệ tử là Ni Sư Hạnh Thân và những tỷ muội làm trụ trì với những nương lang, luống mì và những giồng khoai sắn.

Tất cả chúng tôi có ba ngôi chùa này được khai sơn và hòa nhập với cư dân vùng kinh tế mới Hố Nai. Hơn 20 Tăng Ni, ngày ngày 2 buổi công phu sớm chiều và rồi vui cùng nương rẫy củ khoai trái bắp, giây bí đỏ, bí đao xanh, đậu bắp v.v…Tất cả đều vươn lên mầm sống xanh mượt bằng những gánh nước nặng trĩu trên từng đôi vai của chúng tôi được lấy đi từ con suối nhỏ chảy dọc phía sau chùa, là những bước đi đầy kham nhẫn cho đạo pháp, dân tộc trường tồn trong từng tâm niệm, khí tiết trải nghiệm của quí Thầy và quí Sư Cô với bộ áo vạt khách nâu sòng loang lổ nhiều miếng vá đủ màu, đánh dấu những ngày tháng sống đầy ý nghĩa tại quê nhà.

Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ

Con dốc lòng vì đạo hy sinh.

Kính thưa Chư Liệt Quí Vị, cũng từ nơi này một buổi chiều mùa hạ, mùa an cư cấm túc tu học trong 3 tháng đó, tôi được một nhóm Phật tử tại Sài Gòn lên báo một tin tốt lành là: “chúng con đã lo và tìm đường cho Thầy đã xong, chúng con mời Thầy về lên đường”.Tôi nhớ rất rõ một buổi chiều đầy thổn thức lo âu của một chuyến đi xa không mấy an toàn bắt đầu vây bủa. Tôi cùng một nhóm Phật tử ngồi trên chiếc xe Đasu cũ kỷ, vượt qua những đoạn đường ngặt nghèo đất đỏ phủ kín của vùng kinh tế mới, và cuối cùng chiếc xe đã về đến cầu Sài Gòn. Tôi ngồi trầm tư nhìn kỹ quan sát mọi thứ sinh hoạt của một buổi chiều hoàng hôn buông xuống trên quê hương tôi.

Nhưng không có gì đáng nhớ, mà tôi chỉ nhìn thấy hằn in trên từng nét mặt nỗi lo lắng tất bật khi thành phố đã lên đèn, như báo hiệu một ngày đã trôi qua, những tấm vé số vẫn còn đầy ấp trên tay em chưa bán hết, gánh khoai lang luộc và đậu hủ non còn nặng trĩu trên vai người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi.

Tôi ngắm nhìn đâu đâu cái ăn, cái mặc, cái nợ nần đáo hạn, như vẫn còn vây bủa những người dân nghèo khó khốn cùng của một thành phố đã có một thời mệnh danh là hòn ngọc viễn Đông. Nhưng rồi tôi vẫn được nhìn thấy nét hân hoan thầm kín của mỗi người đằng sau nỗi lo âu tất bật kia, ai ai cũng cố gắng tìm về một bữa cơm chiều đầm ấm bên những người vợ hiền, con thơ hay cha mẹ đã già yếu, ngồi tựa hiên nhà miệng mỏm mẻm nhai trầu ngóng đợi những người con đi tìm mưu sinh trở về khi mặt trời vừa tắt nắng.

Bến bờ tự do đã đến, tôi giã biệt quê hương, giã biệt thành phố Nha Trang thân thương, giã biệt Chùa An Dưỡng tại làng quê Thái Thông, Vĩnh Thái, nơi đã sanh ra tôi và nuôi lớn bằng ruộng đồng bát ngát, giã biệt mẹ già và người thân, giã biệt Sư Phụ tôi cùng Tổ Đình Linh Sơn Pháp Bảo Cầu Dứa, nơi đã vun trồng sơ tâm bồ đề cho từng sứ giả của Như Lai.

Hòn đảo tỵ nạn Bi Đông, Malaysia vào ngày 15-7-1986 đã đón nhận chúng tôi cùng 41 người sau 5 ngày hành trình vất vả, lênh đênh trên biển. Lúc bấy giờ trên đảo có khoảng 11.000 người Việt tỵ nạn cùng 6 vị Tôn Đức như TT. Thiện Quang, TT. Minh Thông hiện đang ở Canada, chúng tôi cùng vài vị nữa. Ôi bút mực nào diễn tả cho hết những ngày tháng đầy ý nghĩa gian lao trên bước đường vượt biển và tỵ nạn, mà hầu hết chúng tôi cùng quí vị đang ngồi ở đây đã từng trải qua không ít gian nan thống khổ. Xin hẹn lại cùng quí vị tìm đọc trong kỷ yếu 20 năm của Tu Viện Quảng Đức sẽ phát hành vào năm tới.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, kính thưa Chư Liệt Quí Vị thân mến,

Sau 6 tháng ở trên đảo Bi Đông, chúng tôi được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan bảo lãnh qua Úc, lúc bấy giờ văn phòng của Giáo Hội đặt tại Chùa Phước Huệ, tiểu bang Sydney.

Sau 10 ngày ở tại văn phòng của Giáo Hội, chúng tôi được Giáo Hội bổ nhiệm về Trụ Trì Chùa Quang Minh tại 177 Morris St, vùng Sunshine. Sau gần 3 năm làm việc tại đây chúng tôi đã mua cho Giáo Hội cũng như Chùa Quang Minh miếng đất rộng hơn 30 ngàn mét vuông của thời điểm năm 1989 với số tiền $ 305.000 Úc Kim. Một miếng đất rộng đẹp mà về sau đã trở thành chốn tòng lâm cho ngôi Chùa Quang Minh.

Sau khi mua đất xong vì lý do sức khỏe nên tôi xin từ chức trụ trì chùa Quang Minh và về xin tịnh dưỡng một thời gian gần 5 năm tại vùng Broadmeadows, một ngôi chùa nhỏ do chúng tôi khai sơn tại nơi đây. Năm năm tại vùng Broadmeadows là một chặng đường khó khăn, từ một ngôi nhà nhỏ cải gia vi tự, gặp phải sự phiền lòng của người láng giềng bản xứ. Đây cũng là những kinh nghiệm “vạn sự khởi đầu nan” của chư Tôn Đức Tăng Ni đang sinh hoạt và phụng sự đạo Pháp trên xứ người.

Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, kính thưa Chư Liệt Quí Vị,

Sau 5 năm khó khăn tại ngôi nhà cải gia vi tự, những người con Phật tại đạo tràng Tu Viện Quảng Đức đã được thuyên chuyển về vùng Fawkner này… Nhìn lại chặng đường đã đi qua, từ ngày khai sơn 20.6.1990 đến hôm nay 24.10.2010 là tròn đủ 20 năm 4 tháng. Chúng tôi không thể nào nhớ hết những người con Phật đầu tiên đã chắc chiu từng đồng trong những lon tiết kiệm, đã giúp tôi bán từng ly nước mía, từng cái bánh bao trong những lần hội chợ của Cộng Đồng, trong số những người giúp tôi ngay từ những ngày đầu, bây giờ có những người đã về với Phật như bác Minh Đức, cô Tâm Đức và vài người nữa. Nhìn lại một chặng đường của 20 năm trên con đường phụng sự đạo Pháp trên xứ người, những người con Phật cả hai hàng đệ tử, xuất gia và tại gia chịu không ít sự thăng trầm vinh nhục khó khăn gian khổ.

Hai mươi năm, một chặng đường của Tu Viện Quảng Đức, luôn sống và thực hiện theo đúng con đường Chánh Pháp của Như Lai, Tổ Tổ Tương Truyền, theo giòng phái Đại Thừa Lâm Tế Liễu Quán, công phu sớm chiều, độ sanh, quan hôn, tang chế, và luôn thực hiện theo đúng chí nguyện “Thượng Cầu Phật Đạo, Hạ Hóa Chúng Sanh”.

Hai mươi năm, một chặng đường Tu Viện Quảng Đức luôn luôn đứng trong lòng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Hải Ngoại tại Úc Châu, và sinh hoạt hướng dẫn Phật tử tu học theo đường hướng chung của Giáo Hội đề ra.

Kính thưa quí vị, những gì hiện có của Tu Viện Quảng Đức mà quí vị đã nhìn thấy đó là biểu hiện sự kham nhẫn, thăng trầm trải nghiệm 20 năm qua của người con dân nước Việt nói chung và nói riêng cho những người con Phật tại đây.

Vườn hoa Giác Ngộ dưới cội Bồ Đề, ngôi già Lam Quảng Đức được phần nào thành tựu trang nghiêm khiêm tốn qua nhiều bàn tay, trái tim và khối óc.

Vì dân tộc và đạo pháp, mà những người con nước Việt đã ngày đêm thao thức, nỗ lực bằng tất cả tài sức, mồ hôi và nước mắt, tâm đức và chí nguyện để nuôi lớn hoài bão, thực hành tâm nguyện của mình, để đóng góp vào nước Úc, xứ sở đa văn hóa này một nền văn hóa Việt, một nền văn hóa Phật Giáo Việt Nam trên xứ người.

Kính thưa quí vị, bước ngoặc hơn 35 năm qua của Cộng Đồng Việt Nam, cũng như 20 năm sự có mặt của Tu Viện Quảng Đức và nhiều cơ sở Tự Viện khác trên toàn Liên Bang Úc Châu, chúng ta có thể khẳng định là chúng ta đã sánh vai cùng các sắc tộc khác đã đến đây trước chúng ta như cộng đồng Ý Đại Lợi, Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon v.v… Chúng ta đã khẳng định vị trí của cộng đồng người Việt Tự Do trên xứ người.

Tu Viện Quảng Đức rồi đây sẽ đi vào cổ kính, tường phủ rêu xanh, chúng tôi cùng tất cả quí vị, rồi đây chúng ta cũng sẽ da mồi tóc bạc, chấp nhận định luật Vô Thường để ra đi vĩnh cửu… nhưng chúng tôi cũng như quí vị, khi sống với đời, chúng ta cần mẫn làm việc để lại cho đời và cho xã hội những hiện vật, dù ít hay nhiều; chúng ta cũng đã tạo tác thành thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp… mà đức Phật đã từng dạy sự đau khổ hay hạnh phúc, sự ràng buộc hay giải thoát, đều bắt nguồn từ các hạnh nghiệp Thiện hay Ác, Xấu hay Tốt của chính thân và tâm mình.

Xin chân thành tri ân, tạc dạ ghi ơn những người con nước Việt lưu lạc trên xứ người xa gần nơi hải ngoại, hồi hướng công đức đến những người Phật tử xa gần đã cùng với chúng tôi chuyển lăn bánh xe chánh Pháp của đức Phật trên xứ người, để cứu mình giúp đời thêm hòa bình an lạc.

Hồi hướng công đức đến tất cả quí Phật tử tại đạo tràng Tu Viện Quảng Đức đã nhiều năm cộng khổ, và nhất là vài tháng gần đây quí vị đã đổ nhiều công lao, tiền của cho công việc Phật sự chung được thành tựu viên mãn.

Cho dù Ban Trị Sự, Ban Tổ Chức Đại Lễ tại Tu Viện Quảng Đức có cố gắng đến đâu thì sự thiếu sót không thể nào tránh khỏi.

Ngưỡng niệm Chư Tôn Thiền Đức Tăng Ni, cùng toàn thể quí vị niệm tình thứ lỗi cho. Nguyện cầu mười phương Chư Phật, Chư Vị Bồ Tát chứng minh gia hộ.

Nhân Danh Viện Chủ Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức chính thức tuyên bố khai mạc buổi Đại Lễ Khánh Thành Bảo Tháp Tứ Ân và Mừng Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức.

NamMô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh

Tỳ Kheo Thích Tâm Phương

dienvankhaimac-vndienvankhaimac-vn2
dienvankhaimac-vn3dienvankhaimac-en
dienvankhaimac-en2
dienvankhaimac-en3
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/02/2021(Xem: 4549)
Myanmar, đất nước chùa tháp, đang khổ đau. Hưởng ứng lời hiệu triệu kêu gọi của chư tôn tịnh đức tăng già Phật giáo “vì dân, do dân và của dân”, hàng triệu người dân trong mọi tầng lớp đã đổ ra đường phố ở các thị trấn và thành phố trên khắp đất nước Phật giáo Myanmar để phản đối cuộc đảo chính của chế độ độc tài quân sự Myanmar, đã lật đổ Chính phủ dân cử của nhà vô địch dân chủ kỳ cựu, nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) vào ngày 1 tháng 2 vừa qua.
25/02/2021(Xem: 7380)
Phần này bàn về cụm danh từ "khoa học" trong tiếng Việt từ thời bình minh của chữ quốc ngữ đến nay. Các tài liệu tham khảo chính của bài viết này là cuốn "The Emergence of the Modern Sino-Japnese Lexicon – Seven Studies" (chủ biên/dịch giả Joshua A. Fogel – NXB Brill – Leiden/London 2015), và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) tự điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra tự điển này trên mạng, như trang http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
25/02/2021(Xem: 4782)
Vào hôm thứ ba, ngày 16 tháng 2 vừa qua, Đoàn thể Phật giáo Myanmar đã Tuần hành phản kháng chế độ độc tài quân sự Myanmar, tham gia chiến dịch chấm dứt chế độ độc tài quân sự Myanmar dưới sự cai trị hung hãn của các tướng lĩnh quân đội, và trả tự do cho các nhà lãnh đạo bị giam giữ của Chính phủ dân cử bị lật đổ, bao gồm cả nữ cư sĩ Phật tử Aung San Suu Kyi, Cố vấn nhà nước Myanmar, Chủ tịch và Tổng Bí thư Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD).
23/02/2021(Xem: 4890)
Ngày càng có thêm nhiều bằng chứng về việc xây dựng Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) và các cơ sở dân sự ở các khu vực khác ngoài Ladakh, một khu vực ở bang Jammu và Kashmir của Ấn Độ. Nó kéo dài từ Siachen Glacier trong phạm vi Karakoram đến Himalaya ở phía nam và có người gốc các dân tộc Ấn-Arya và Tây Tạng, chẳng hạn như dọc theo biên giới tranh chấp ở Vương quốc Phật giáo Bhutan và Arunachal Pradesh, một trong hai mươi chín bang của Ấn Độ.
23/02/2021(Xem: 5342)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần..v..v.. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả, điều đó thật là đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được vua Đinh Tiên Hoàng phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam vào năm Thái Bình thứ 2 (971). Cho đến các Thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh,v..v.... đều là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
23/02/2021(Xem: 10311)
Văn học thời Trần là giai đoạn văn học Việt Nam trong thời kỳ lịch sử của nhà Trần (1225 – 1400). Văn học thời Trần tiếp tục và có nhiều bước tiến bộ rõ rệt hơn so với văn học thời Lý (1010 – 1225). Văn học thời Trần chịu ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo. Tư tưởng Phật giáo chủ yếu trong văn học thời Trần là tư tưởng thiền học.
23/02/2021(Xem: 9133)
Trong nội dung của ấn bản lần thứ hai của quyển “Tư tưởng Phật giáo trong Văn học thời Lý”, chúng tôi vẫn giữ những điểm chính quan trọng của ấn bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, chúng tôi đã sửa chữa và bổ sung một vài nơi. Chúng tôi đánh giá cao sự góp ý và phê bình của: GS Lưu Khôn (Cựu GS tại trường ĐHVK Saigon và Cần Thơ), GS Khiếu Đức Long (Cựu GS tại ĐH Vạn Hạnh), Ô. Nguyễn Kim Quang (Cựu học sinh Lycée Petrus Ký 1953-1960), cố Kỹ Sư Nguyễn Thành Danh (Vancouver, Canada). Trong khi viết quyển sách này lần thứ nhất vào năm 1995, chúng tôi đã được sự giúp đỡ và góp ý của các thân hữu: cố Hoà Thượng Thích Nguyên Tịnh (Cựu Trú trì Chùa Thiền Tôn, Vancouver, Canada), cố GS Nguyễn Bình Tưởng (Cựu Hiệu Trưởng trường Trung Học Vĩnh Bình, và Cựu Giám Học trường Trung Học Nguyễn An Ninh, Saigon), chúng tôi chân thành cám ơn quý vị này.
20/02/2021(Xem: 6432)
Thơ tụng tranh chăn trâu của thiền sư Phổ Minh gồm tất cả mười bài thơ “tứ tuyệt” cho mười bức tranh chăn trâu với các đề mục sau đây: 1. Vị mục: chưa chăn 2. Sơ điều: mới chăn 3. Thọ chế: chịu phép 4. Hồi thủ: quay đầu 5. Tuần phục: thuần phục 6. Vô ngại: không vướng 7. Nhiệm vận: theo phận 8. Tương vong: cùng quên 9. Độc chiếu: soi riêng 10. Song mẫn: cùng vắng
20/02/2021(Xem: 8836)
Kinh Hoa Nghiêm được giải thích là kinh đầu tiên khi Phật đạt chánh đẵng chánh giác sau 49 ngày thiền định. Sau đó người giảng kinh Hoa Nghiêm cho chư thiên và bồ tát là giảng bằng thiền định tâm truyền tâm nên im lặng suốt 21 ngày. Kinh Hoa Nghiêm nói về Tâm. Kế đến Kinh Lăng Già Phật cũng giảng cho Ma vương và ma quỷ sống trong hang động ở đỉnh núi Lăng Già. Phật giảng bằng tâm truyền tâm ấn nên không có nói bằng lời và giảng về Thức vì Ma vương không còn uẩn sắc nữa mà chỉ còn là tâm thức. Kinh Lăng già là giảng về Duy Thức Luận. (bài viết của cư sĩ Phổ Tấn)
20/02/2021(Xem: 5007)
Washington: Theo báo cáo của The Economist, Trong nỗ lực mới nhất nhằm thắt chặt vòng vây Tây Tạng, Trung Cộng đang buộc người Tây Tạng ít quan tâm đến tôn giáo của họ hơn, và thể hiện nhiệt tình hơn đối với chế độ độc tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc do Tập Cận Bình lãnh đạo tối cao. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tăng cường nỗ lực phủ nhận vai trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma ra khỏi đời sống tôn giáo của người dân Tây Tạng để xóa bỏ danh tính của họ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cưỡng chiếm Tây Tạng vào giữa thế kỷ 20 sau thập niên 1950, và kể từ đó đã kiểm soát khu vực cao nguyên tại Trung Quốc, Ấn Độ, Bhutan, Nepal, và Pakistan tại châu Á, ở phía bắc-đông của dãy Himalaya..
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]