Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền và trí thức

05/11/201309:28(Xem: 10334)
Thiền và trí thức

thien-va-tri-thuc


Một hôm, nhạc sĩ Dương Thụ mời tôi đến Cà phê thứ 7 của anh trò truyện một bữa cho vui. Được thôi. Tôi vẫn thỉnh thoảng đến chỗ anh để uống cà phê và nghe chuyện trò mà. Đề tài gì? Thiền và sức khỏe. Vấn đề đang rất được giói trí thức quan tâm. Căn phòng nhỏ xíu, nhưng trang nhã, ấm cúng. Một, chỗ chơi nhạc thính phòng, họp mặt bạn bè, kiểu salon thế kỷ 18 – chỉ thiếu một nữ bá tước – để chuyện trò thân mật, cách biệt với ồn ào nhộn nhịp ngoài kia.

Đã thấy có các nhà văn, nhà báo, nhà giáo, học giả, nhà vật lý, kiến trúc sư, luật gia…và khá nhiều bạn bè. Cũng như mọi lần, câu hỏi đặt ra là vì sao bệnh viện mở ra ngày càng nhiều mà lúc nào cũng “quá tải”? Vì sao con người bây giờ tiện nghi dồi dào mà đau ốm triền miên?Vì sao bệnh nhiễm gia tăng trở lại và bệnh do hành vi lối sống ngày càng một phát triển trong khi khoa học y học tiến như vũ bão? Rõ ràng sức khỏe không phải là chuyện của y tế. Y tế chỉ làm mỗi việc “cứu tế về y khoa” khi ta đau ốm quặt quẹo. Sức khỏe còn là chuyện của mỗi người, của mọi người. 

Khi melamine ở trong sữa, kích thích tố sinh dục ở trong thịt, thuốc trừ sâu ở trong rau…thì bác sĩ làm sao? Khi bụi khói đầy đường, tiếng ồn đinh tai nhức óc thì bác sĩ làm sao? Tại sao nhiều diễn viên tài tử giàu có xinh đẹp bỗng một hôm thắt cổ hoặc uống thuốc tự tử? tại sao lâu lâu một tỷ phú đại gia nhảy lầu? Thì ra đời sống càng tiện nghi, nhu cầu vật chất càng được thỏa mãn thì con người càng xa lạ với tự nhiên, với chính mình. Stress chính là nguyên nhân sâu xa của 60-90% bệnh lý đưa người ta đến bác sĩ. Mà bác sĩ thì chữa được cái đau chứ không chữa được cái khổ. Chữa được cái bệnh chứ không chữa được cái hoạn. Cho nên cứ xá quần như vậy. Có cách nào không?

Có. Thiền. Thiền có thể góp phần giải quyết căn cơ. Thiền giúp ta biết “dừng lại”, “thôi đi”. Thiến giúp ta nhận ra nhưng “điên đảo mộng tưởng”. Nhưng thiền là gì? Cách nào? Hãy bắt đầu từ việc đơn giản nhất. Đó là Thở, thở bụng. ô hay, Thở phải bằng ngực chứ, Phổi nằm ở ngực kia mà? Phổi nằm ở ngực nhưng thở nằm ở bụng. Cứ nhìn một em bé đang ngủ say mà xem? Cứ nhìn một người đang ngủ yên mà xem? Chỉ có cái bụng là phình lên xẹp xuống, còn cái ngực thì …im re. Thật vậy, khi cái ngực mà khò khè,mà có cứ là nó đã bị bệnh rồi, đã suyễn hoặc viêm phổi tắc nghẽn mãn tình tính rồi. Nói khác đi, cách thở sinh lý, thở thiên nhiên, thở bình thường chính là thở bụng. Người khỏe thì luôn luôn thở bụng, nên thở bụng làm cho ta khỏe. Chỉ có vậy. “Bí quyết” nằm ở chỗ đơn giản đó. Các phương pháp khí công dưỡng sinh, yoga, thiền…đều bắt đầu bằng tập thở bụng. 

Tại sao phải tập? Bởi không biết tự thuở nào, con người lại xa rời nguồn gốc tự nhiên của mình, bày ra thở ngực, cũng như thay vì ăn thức ăn lành mạnh sẵn có trong thiên nhiên, con người chế biến đủ kiểu cho nó hư đi. Do vậy, thở phải được rèn tập trở lại. Về sinh lý, hô hấp chính của ta là cơ hoành, vắt ngang giữa bụng và ngực, chứ không phải cơ quan sườn hay cổ. Khi các cơ quan sường hay cổ ráng sức phì phò thì đã bệnh rồi. Nhắc lại phương pháp thở bụng của Nguyễn Khắc Viện, của Dean Ormish của Deepak, Chopa và cả kinh nghiệm bản thân. Phương pháp đơn giản, không tốn kém này hiện nay ngày càng được phổ biến ở trung tâm y khoa lớn trên thế giới để chữa tress, căn nguyên các bệnh dịch không lây như tim mạch,huyết áp, tiểu đường, gout…

Nhưng thiền không dừng ở đó, sau thở bụng, bước tiếp theo là “dõi theo” và “suy tưởng” về cái hơi thở đó. Nó vào nó ra, nó lên nó xuống nó phồng nó xẹp. “Dõi theo” khác với “theo dõi”. Theo dõi mệt lắm. Dõi theo thì ung dung hơn. Cứ thả cho nó sao thì sao, chỉ cần dõi theo, ghi nhận không bình luận hay phê phán. Trí thức vốn hau bình luận hay phê phán…nên trí thức thường thất bại trong thiền. Một người hàng thịt buông dao thành Phật. Trí thức còn lâu! Nhưng trí thức lại có cái hay của nó. Nó không dễ tin, nó ngờ. Nhưng đại nghi đại ngộ, càng nghi càng ngộ. Hơn hai ngàn năm trăm trước, một nhà minh triết – Đức Phật – bảo đừng vội tin tôi, cứ đến nếm thử đi rồi biết. 

Đến và nếm thử. Đến là thực hành. Làm đi đừng nói nữa. Vụ này nói không được, “bất khả thuyết”? nếm thử và cảm nhận. Phải tự mình cảm nhận, tự mình thể nghiệm riêng mình cảm nhận không thể nhờ ai khác. Thở mà cũng phải nhờ người khác thở giùm hay sao? Tôi ngạc nhiên thấy các ông ấy dạy “thở”, bắt người ta làm theo ý mình. Làm theo sao được! Mỗi người có cái sinh lý, thể chất, tâm lý riêng của mình chứ. Nắm lấy nguyên tắc thôi, rồi thực hành theo kiểu của mình. Bắt chước người khác, tẩu hỏa nhập ma như chơi! Họa sĩ Hoàng Lập Ngôn có lần nói với ông đi máy bay từ Hà Nội vào Saigon chỉ thở 60 lần là tới nơi, nghĩa là mỗi hơi thở của ông ta dài 2 phút. Máy bay bay 2 giờ, ông thở 60 lần. Cón ta, bắt chước ông sao được. ông có cái sinh lý của ông, lại rèn từ thuở nhỏ.

Cái hay thứ hai của trí thức là “suy tưởng”. Thiền cần suy tưởng. Không phải suy tưởng truyện tranh bá đồ vương, gồm thâu lục quốc, nhất thống giang hồ, muôn năm thường trị gì đâu! Trước hết là suy tưởng về cái hơi thở đang vào đang ra kia! Tưởng nó ở trong ta, hóa ra nó ở ngoài ta, tưởng ta điều khiển nó nhưng hóa ra nó cóc cần ta. Lợi ích bất ngờ là sự dõi theo và suy tưởng “hồn nhiên” đó ai dè giúp ta cắt đứt dòng “tâm viên ý mã” linh tinh khác. Gom thân tâm ta về một mối là hơi thở của chính mình. Ở đây và bây giờ, dứt bật những lo âu phiền muộn. Nói khác đi, nó làm ta được “thảnh thơi”, nó giải stress, nghĩa là mang lại sức khỏe, hạnh phúc.

Thiền có thể làm cho ta được thành thơi, giải tress, mang lại sức khỏe an lạc hạnh phúc ư? Tin được không? Có cơ sở khoa học nào không? Trí thức sẽ hỏi. Đâu dễ tin. Và câu trả lời là có, ít ra về mặt sinh học. Thở chẳng phải trước hết là chuyện sinh học ư? Ta cần lấy oxy từ bầu khí quyển đưa vào phổi, rồi máu mang oxy đó đến từng tế bào trong cơ thể để tạo ra năng lượng cho sự sinh tồn và hoạt độn của ta. Một người chạy đua 100m phải nín thở để chạy đến nơi, anh ta thở hào hển vì phải trả “nợ oxy” đã vay mượn trong lúc nín thở. Cơ thể ta lúc nào cũng ở trong tình trạng căng cứng để đi đứng nằm ngồi, các cơ bắp luôn luôn co duỗi để giữ cho ta có một tư thế theo ý muốn. Sự căng cứng cơ bắp (tonus musculaire) đó tiêu thụ khoảng 40% năng lượng. 

Nếu có cách nào làm giảm sự căng cứng cơ ta sẽ tích lũy năng lượng đáng kể. Cơ thể nhờ đó mà đỡ vất vả, sảng khoái hơn. Riêng não tuy chỉ chiếm có 2% thể trọng mà tiêu tốn hết 30% năng lượng. Nếu có cách nào đó làm cho não bột được nghỉ ngơi, tích lũy thêm một số năng lượng đáng kể nữa, các tế bào nhờ đó mà đỡ vất vã sảng khoái hơn nữa. Sự sảng khoái trong tiền gọi là “thiền duyệt”. Câu hỏi đặt ra là tại sao não bộ lại xài phí tiêu hoang năng lượng nhiều đến vậy? Thì ra ão lúc nào cũng ở trong trạng thái “điên cái đầu”, lúc nào cũng nghĩ ngợi lung tung, tâm viên ý mã! Trí thức - hoạt động trí não nhiều – càng dễ bải hoải, kiệt sức, quên trước quên sau, đến bác sĩ, bác sĩ chẩn đoán là “Mệt mõi kinh niên không rõ nguyên nhân”, nghĩa là bí..Lúc say mê làm việc trí thức thường thở để sau đó hổn hển trả nợ oxy. Thiền vừa làm giãn cơ, vừa làm lắng dịu các hoạt động lăng xăng của não, nhờ đó mà giúp cơ thể thảnh thơi, an lạc. Hoạt động thể chất sau đó sẽ bền bĩ hơn, suy tưởng sau đó sẽ tập trung hơn, sáng suốt hơn.

Trong lúc tập trung theo dõi hơi thở như thế, những câu hỏi sẽ gợi lên: tại sao phải thở? Không thở được không? Tại sao cần oxy (02) – khí thải của cây xanh – trong khi cây xanh cần carbonic (C02) – khí thải của ta? Có sinh vật nào sống mà không cần oxy không?…Câu trả lời sẽ liên quan đến khí quyển, đến môi trường, đến cây xanh, đến sinh vật hiếm khí, vi khuẩn sống trong núi lửa, trong băng tuyết…rồi nhìn ra mệnh mông thấy không chỉ có vũ trụ (universe) mà là đa vũ trụ (multiverse), tam thiên, đại thiên thế giới, rồi trùng trùng duyên khởi..từ đó có hôm nào nhận ra thực tướng, vô tướng, cái mà bây giờ người ta gọi là “Theory of Everything” (?)…hay như Stephen W. Hawking giật mình nhận ra cái The Grand Design, “vô sở tùng lai diệt vô sở khứ” (?). Thiệt ngộ, chỉ với các nguyên tố C, H, và O quấn quýt lấy nhau, chỉ cần ngọt ngào thì có đường, khi cần chua chát thì có giấm, khi cần đắng cay có chút rượu mềm môi?

Khi bản đồ gien người được thiết lập, các nhà sinh học giật mình thấy cái cây cổ thụ ngoài sân chứa đến 70% gien người, ai dám bào không có chuyện “thạch nữ giá bồ lang”? Cái cọng cải non xanh kia có đến 26% gien người, rồi ruồi giấm, chuột bọ…Chuột có đến 97,5% gien người nên nó có đám cưới chuột, mới có “chuột kêu chút chít trong rương, anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay”. Ễnh ương, tắc kè, thằn lằn rắn mối…con nào cũng phì phò xì xụp, cũng phình phình xì xẹp đó thôi…Thiền cón giúp ta sinh trụ dị diệt, thấy mỗi hơi thở là một kiếp người. Bé sơ sinh hít mạnh hơi vào thì cụ già thở hắt hơi ra. Giữa hai lần thở đó là những làn sóng lăn tăn, dài ngắn. Đừng tìm kiếm thần thông, phép lạ. Thần thông phép lạ đầy rẫy quanh ta.

Buổi trò chuyện chuyển sang phần hỏi đáp. Chỉ xin ghi lại vài câu:

1- Kiếm hiệp hay nói “đưa hơi xuống huyệt đan điền là sao?”.Đó chính là cách thở bụng, ki hít vào đẩy cơ hoành xuống càng sâu càng tốt, xuống tận huyệt “đan điền”. Huyệt đan điền nằm dướ rún 3 lóng tay, khoảng 4cm. Đan là thuốc, điền là ruộng. Đan điền là ruộng thuốc. “Linh đan diệu dược”. Người xưa coi thở bụng là phương pháp luyện công tốt nhất, được sử dụng trong vỏ thuật và phép tu tiên để trường sinh bất lão. Thực ra cơ hoành chỉ di chuyển được khoảng 7cm thôi, chưa quá rún, cũng đã đưa vào 1,5 lít không khí rồi. Nhưng cần để ý ráng sức thở sâu quá dễ bị “tẩu hỏa nhập ma”.

2- Dùng ý dẫn khí đến những nơi mình muốn có được không?Chẵng hạn đến tận ngón tay, ngón chân, các khớp đang đau nhức? Được. . Ý dẫn các pháp mà! Về sinh học, hệ thống mao mạch dài đến 100.000km (hai vòng rưỡi xích đạo trái đất chứ it gì?) dẫn khí đến tận cùng trong cơ thể con người. Mỗi tế bào thực chất là một.. sinh vật. Chúng hấp thụ oxy để tạo năng lượng. Dùng ý dẫn khí là một cách nói, nhấn mạnh khả năng đưa khí lưu chuyển toàn thân, đến từng tế bào nhờ hệ thống mao mạch này. Hiện tượng “viêm” trong y học – sưng, nóng, đỏ, đau – chính là đưa máu dồn vào nơi đó để chữa trị, tập trung oxy nhiều đến đó để tăng cường năng lượng.

3- Tôi học cách thở âm và thở dương? Thở dương là đưa qua mũi, theo nhâm mạch xuống đan điền, hậu môn, nhíu hậu môn lại, thở âm là đưa hơi lên đỉnh đầu, theo dốc mạch đến hậu môn, nhíu hậu môn lại…để chữa trị các trạng tha1iam6 và dương của thân tâm đúng không? Đúng.Bí quyết nằm ở chỗ “nhíu hậu môn”. Những thứ khác thực chất vẫn là thở bụng, thở sâu. Khi vỏ não tập trung vào điều này, thì không thể tập trung vào điều khác. Hai người sắp đánh nhau mà nghe động đất, sợ quá bỏ chạy quên đánh nhau. Cái “sợ” đã thay đổi cho cái “giận” ở vỏ não. Một người ở trạng thái buồn bã (âm) hay trạng thái kích động (dương), mà biết tập trung vào hơi thở sâu, tập trung vào chuyện ‘nhíu hậu môn’ thì ‘công tắc’ đã chuyển qua hướng khác ở vỏ não.

4. Nghi ung thư, xét nghiệm không có gì, chỉ bị cao huyết áp (HA). Mua máy đo huyết áp về do mỗi ngày cả chục lần, lúc nào cũng cao, chỉ uống vài ly thì HA mới xuống?Một tỷ phú Mỹ thường đọc báo ý học nghĩ mình bị ung thư. Khám bác sĩ, bình thường, không tin, đến bác sĩ khác. Cuối cùng gặp một bác sĩ giỏi, biết ngay là ung thư. Mừng vì mình chẩn đoán bện giỏi hơn các bác sĩ, tỷ phú hiến hết tài sản rối đi chu du khắp thế giới trước khi chết, mời cả cô y tá xinh đẹp của bác sĩ cùng đi. Sáu tháng sau dẫn vợ – cô y tá bây giờ là vợ – về thăm bác sĩ, hoàn toàn khỏe mạnh. Bác sĩ cười: “ông chỉ “bệnh tưởng”. Vụ HA thì chính cái máy đó là thủ phạm. mỗi lần đo là mỗi lần lo lắng, căng thẳng nên HA tăng cao. Khi có vài ly vào thì hết lo, hết căng thẳng.

Nhưng thiền không dừng lại đó. Nó mở ra những khoảng mênh mông bất khả tư nghì!.


Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 114 | ĐỖ HỒNG NGỌC



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/10/2014(Xem: 7561)
Có những gì cần phải sửa trong Kinh Phật hay không? Có những gì cần phải cắt bớt khỏi Kinh Phật, hay cần phải bổ túc thêm cho Kinh Phật hay không? Câu trả lời tất nhiên không dễ. Vì người xưa đã nói, nếu chấp vào nghĩa từng chữ một, có thể sẽ hiểu nhầm ý của Phật; nhưng nếu rời kinh một chữ, lại hệt như lời ma nói. Nguyên văn: Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan; ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết.
26/10/2014(Xem: 9068)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này. Nhưng đâu đó trên hành tinh, mưa thu lất phất bay, và gió thu se sắt gợi buồn; cũng có nơi mưa ngập cả các con lộ chính của thành phố lớn để người và xe cộ phải lội bì bõm trong giòng nước ngầu đục. Và chỗ nọ, chỗ kia, làn gió dân chủ, hòa bình, khơi niềm hứng cảm cho sự vươn dậy của ý thức tự do, khai phóng.
24/10/2014(Xem: 14235)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
24/10/2014(Xem: 8168)
Chuyện kinh Phật kể rằng, tự ngàn xửa ngàn xưa, hằng hà sa kiếp trước, có con thỏ ngọc nọ thấy bầy đàn đang lúc giá rét cuối đông, chẳng kiếm được chút rau cỏ gì cho nguôi cơn đói bụng ; thỏ nọ liền “hưng khởi đại bi tâm” nhảy vào đám lửa đang cháy rực hồng, tự biến thân mình thành thịt nướng cho bầy đàn ăn đỡ đói. Khi bầy đàn thỏ no nê thì cũng là khi thân thỏ nọ chỉ còn sót lại mấy miểng xương đen. Phật biết đại bi tâm của thỏ từ đầu, bèn nhặt xương thỏ đem về cung quảng, phục sinh và đặt tên cho thỏ là NGỌC THỐ - có nghĩa là Thỏ Ngọc, một sinh thể có đại bi tâm quý như ngọc; thứ ngọc Phật từng nói đến trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bấy giờ, cuộc đời thỏ ngọc ngày đêm yên ả nơi cung trăng, tự thân sớm hôm trau dồi công dung ngôn hạnh khiến biết bao người chung quanh nâng niu, thương yêu chiều chuộng.
23/10/2014(Xem: 12818)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia. Tuyển tập các bài viết này gồm ba mục đích chính: (i) Xóa bỏ mê tín dị đoan và các tập tục hủ lậu, (ii) Giới thiệu Phật pháp căn bản, giúp người đọc hiểu rõ các giá trị thiết thực của đạo Phật, (iii) Đính chính các ngộ nhận về các khái niệm thầy tu, giải thoát, giá trị trị liệu của thiền và bản chất hạnh phúc trong hiện tại. Dầu được viết trong nhiều thời điểm khác nhau cho nhiều đối tượng độc giả, tác giả chú trọng đến việc giới thiệu về hình thái đạo Phật nguyên chất, xây dựng niềm tin bằng lý trí, giới thiệu đạo Phật từ góc độ ứng dụng trong đời sống, so sánh những điểm dị biệt và sự vượt trội của đạo Phật đối với các truyền thống và tín ngưỡng khác.
23/10/2014(Xem: 8458)
Bằng cách này hay cách khác, Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện, tránh mọi khổ đau và để thực nghiệm hạnh phúc an lạc. Trong bài kinh Nghèo khổ thuộc Tăng Chi Bộ, Ngài đơn cử câu chuyện một người nghèo túng về của cải vật chất nhưng không biết cách nỗ lực khắc phục tình trạng nghèo khó của mình nên phải liên tiếp rơi vào các cảnh ngộ khó khăn để nhắc nhở chúng ta về các tai họa khổ đau mà chúng ta sẽ phải đối diện, nếu không biết nỗ lực nuôi dưỡng và phát huy các phẩm chất đạo đức và trí tuệ của mình.
23/10/2014(Xem: 10029)
Tục lệ, hay những lễ nghi đã trở thành thói quen, là văn hóa được ước định của một dân tộc. Sự hình thành tục lệ thường chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán trong dân gian, hoặc do sự thực hành các tín ngưỡng tôn giáo lâu ngày của một cộng đồng. Sau khi truyền vào Trung Quốc, Phật giáo không chỉ đi sâu vào dân gian, hòa nhập với đời sống, từng bước hình thành nên một bộ quy phạm lễ nghi về “hôn táng hỷ khánh” (dựng vợ gả chồng, chôn cất người chết, thể hiện niềm vui, bày tỏ việc mừng); mà còn có tác dụng thay đổi phong tục đối với các thói quen dân gian mang đậm màu sắc mê tín trong các việc như: tổ chức hôn lễ rườm rà; đoán số mệnh dựa trên bát tự(1); miễn cưỡng tổ chức việc vui trong lúc gia đạo đang gặp rắc rối với mong muốn giải trừ vận xui, tà khí, chuyển nguy thành an, gọi là xung hỷ; thực hành tục minh hôn(2); duy trì lối khóc mộ; xem phong thủy…
23/10/2014(Xem: 9355)
Từ Thiện chỉ là Tu Phước, đó là cành lá hoa trái, nhưng Tu Huệ là gốc rễ , có chăm sóc cội gốc thì cây Bồ-Đề mới xanh tươi, đó là Phước Huệ song tu, là Tâm Hạnh của một vị Bồ-Tát, Một vị Phật tương lai, hiện tại phải Hành Bồ-Tát Đạo, Phục vụ chúng sinh là cúng dường Chư Phật, Bồ-Tát Giới thì cũng có Xuất gia và Tại Gia, Người con Phật phải luôn tưởng nhớ đến Tánh Phật vốn sẵn nơi chính Thân Tâm Ngũ Uẩn nầy, Người Tu Phật phải luôn nhìn lại chính mình, nếu hiểu được chính Thân Tâm mình, thì sẽ hiểu được người khác, (Tức Quán một Pháp thông, thì tất cả các Pháp đều thông) Người Giác Ngộ đối với Thân Tâm này, chỉ thấy là như hạt bụi, rời hơi thở rồi thì thiêu đốt thành tro, Muốn giải thoát Luân Hồi Sanh Tử, thì sống chấp nhận trả Nghiệp quá khứ, mà không tạo thêm Nghiệp tương lai, Bằng cách, nếu có người phiền não Ta, hay tức giận Ta, thì liền xin lỗi, đó là chấp nhận trả Nghiệp cũ, mà không tạo thêm nghiệp mới,
22/10/2014(Xem: 8342)
Tôi thường đeo một xâu chuỗi nhỏ ở tay, cũng nhiều năm rồi, như một sở thích, như một thói quen. Nhiều người thấy lạ thường hỏi, mang xâu chuỗi chi vậy? Tu hả? Cầu xin gì hả? Thường thì tôi chỉ cười thay câu trả lời vì cũng hơi rắc rối để giải thích.
21/10/2014(Xem: 8706)
Tôi may mắn có mặt trong buổi tối quý giá mà đông đảo Phật tử và thanh niên Hà Nội đã được học hỏi từ Sư bà Thích Nữ Giác Liên, một vị ni sư có 2 dòng máu Ấn – Việt, và là tác giả của cuốn “Đường về xứ Ấn”, tại nhà sách Thái Hà (119 C5 phố Tô Hiệu, phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội). Sư bà Thích Nữ Giác Liên sống ở Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ đã 7 năm, đã đi giảng Pháp tại nhiều nước trên thế giới. Sư bà cũng là tác giả của nhiều bản đạo ca nổi tiếng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]