Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm thọ thời gian....

07/09/201315:58(Xem: 6669)
Cảm thọ thời gian....
Chua_Co_2

CẢM THỌ THỜI GIAN
Nhân một ngày về thăm lại chùa xưa.

Vào những năm 1974-1996, khi ấy tôi còn ở một ngôi chùa tọa lạc ngoại vi Thành phố. Trước đó, ngôi chùa nầy có một lần trùng tu lại, vì nguyên thủy của nó chỉ xây dựng bằng phương tiện vật liệu nhẹ như; mái, vách tôn, cột, kèo bằng gỗ thao lao, nền chùa lót bằng gạch tàu trông vẽ đơn sơ, mặt sân đất thoáng rộng, dân cư chung quanh còn thưa thớt lắm, nên không gian ở đây còn yên tĩnh hơn bây giờ nhiều.

Tôi còn nhớ năm ấy (1973), cùng đi với cha tôi đến chùa dự lễ cầu nguyện nhân ngày Rằm tháng giêng (Nguyên tiêu). Hình ảnh đầu tiên đã chạm vào mắt và tâm tư của tôi, đó là một mái chùa đơn sơ núp dưới những cành mít, cành xoài, cành thị, đong đưa phía sau xa là những ngọn tre tàu, tầm vong. Bức tranh chấm phá một phối cảnh tươi mát của màu xanh hiền dịu và bình dị. Kế đến, trông những nhà sư khoát lên chiếc y vàng lẫn trong những sắc màu của thế tục, hiền hiện một nét “Diệu hạnh” một trong những hạnh đức của nhà sư, của một vị có tâm tu tập, có được tâm nhu nhuyển, và có tâm an hòa dễ sử dụng giữa muôn trùng pháp duyên sanh diệt.

Cái đơn sơ thoáng đảng của cảnh chùa, sự bình dị trong sáng hạnh đức của nhà sư, những hình ảnh ấy đã giúp cho tôi có một cảm giác ý thức về đời sống tịnh lạc, siêu hóa giữa cuộc đời thường của những bậc cổ đức xa xưa đã có được. Một thoáng nghĩ, một thoáng biến mãn trong tâm tưởng ở thời tuổi trẻ, tôi lại mường tượng hình ảnh ấy về thời Đức Phật và chư Thánh đệ tử khi còn lưu trụ ở những ngôi tinh xá như ; Tịnh xá Kỳ Viên thuộc Xá Vệ Thành, Tịnh xá Trúc Lâm trong rừng trúc gần thành Vương Xá hay Tịnh xá Nirodha ở thành Ca-Tỳ-La.v.v…

Khi một hình thức đã được chuyển hóa nội dung đến với cuộc sống trong thế gian, và khi mà nội dung ấy thật sự đã trở thành chất sống cho muôn sự sống, hiển bày sự trầm hùng, mầu nhiệm, đặc thù pháp ý lan tỏa từ cội nguồn uyên nguyên hiển thị giữa bao lớp sóng trầm luân, rộn ràng, lao xao trong cõi tử sinh. Và cũng chính từ những cảm thọ ấy mà thời gian đã đưa tôi đến việc xuất gia học đạo.

Sau khi vào chùa như một đứa trẻ còn nằm trong chiếc nôi (Giáo Hội), được sự nuôi dưỡng bởi dòng sữa “Giới pháp” của Phật của Tổ Thầy và của Tăng thân, từ ấy mỗi lúc được lớn dần lên, nên sự nghe, sự thấy, sự cảm thọ cũng được chuyển hóa tăng thượng tâm, từng lúc hướng về phương trời chân lạc. Nhưng phải đâu chừng ấy việc như trong lòng bàn tay nhỏ bé, để được thành tựu, nào là vỗ lòng theo tiếng chuông khuya, chuông chiều, với đôi chân kiết già, lưng thẳng, với đôi mắt nhìn đời tỉnh thức, với tiếng kẻng báo thức đầu ngày, với tiếng kẻng báo ngọ (trưa), với tiếng kẻng dự lớp học tập (giáo lý)… Mà người xuất gia nào cũng phải có một thời đi đến thọ nhận và tiêu hóa khi đã được ngang qua.

Rồi thời gian cứ lặng trôi, nay lại tiếp nhận một cảm thọ mới. Cái cảm thọ của sự kính trọng, của sự lễ bái, của sự cúng dường, cái cảm thọ có thấy mình giữ giới, thấy mình có tu thiền, tụng kinh, niệm Phật, thấy mình có học hiểu giáo lý, biết lý sự phân bua, biện minh, tự phụ và hơn thế nữa, thấy mình có một vài chức danh, lợi lộc trong tăng đoàn.v.v… Để rồi từ đó có tín đồ cận sự, có nhóm bạn nhóm bè, bởi thuận dòng tâm thức với nhau, chiêu cảm nhau mà trở thành, xu hướng ấy là một từ trường, là một vòng xoay đồng cảm, gặp nhau rồi duyên với nhau giữa muôn vạn hướng đời xuôi ngược.

Vẫn biết rằng ; Bao hạnh phúc bình yên, hay những niềm đau khổ lụy trên muôn ngã đường đời cũng không ngoài kết quả từ hành động của tâm. Chính những dòng lực dục nhiễm, ái nhiễm tự bao đời nó làm cho ta vấp phải. Nhưng với những cường lực về tâm nguyện, nó lại giúp cho ta trên con đường trở về nơi cứ điểm siêu hóa của tâm linh, vì:

Sầu muộn của con người

Chính do sự sanh y

Ai không có sanh y

Không thể có sầu muộn”

K. Tiểu Bộ I, 470, 34.

Thay vì tìm về nguồn tâm qua sự tu tập để được an tịnh lạc, giải thoát lạc hay thiền lạc, an trú qua lời dạy của Phật để được hiện tướng pháp hỷ, tăng trưởng thêm nhiều duyên lành, thì ở đây chúng ta có thể dễ dàng rơi vào duyên thế lợi. Một giao lộ cảm thọ mới, một xu hướng không ít phiền tạp giữa tốt và xấu, giữa bình yên và náo động, giữa chân thật và giả tạm, giữa xây dựng và phá hại. Sự nghiêng chao nếu không có năng lực chánh trí quán chiếu, không có sức sống thật sự của Tăng thân, thì sẽ bị mất hút vào mê lộ lạc thú thỏa thích trong cảm giác ảo huyền sương khói bồng bềnh theo điệp khúc giữa dòng đời hư thực, và cũng từ sắc màu , vị ngọt của cuộc đời, mà ta cùng đến, cùng đi, cùng ngồi lại để nghe và nhận lan man những cảm thọ trập trùng ngàn mây.

Không cuộc chơi nào lại không tàn cuộc, tiếng nhạc du ngân nào lại không rụng mất thanh âm, giấc mộng nào lại không phôi pha cho cuộc lãng du khi đã thấy vầng trăng bóng xế canh tàn ! Có còn chăng, chỉ là hoài niệm xa xôi, mà thực tế và thực chất là câu trả lời đích thực hơn bao giờ hết. Đối với vị theo pháp của Phật, thì cái được trong cõi phù du, dù đã qua hay đang có, rồi có còn chăng, hay còn lại một mình ta ! Hư thực là đâu, bỉ ngạn là đâu, thị ngạn là đâu !?.

Đức Khổng Tử khi còn sanh tiền và Ngài còn được tôn vinh “Vạn thế sư biểu”, có lần Ngài gọi các thầy Tử Cống, Tử Lộ và Nhan Hồi để hỏi về đức “Trí và Nhân”.Nhưng cuối cùng, người đệ tử tâm đắc là thầy Nhan Hồi đã làm cho Đức Khổng Tử thỏa mãn ý nguyện của mình: Nếu như người có Trí, là trước tiên phải tự biết mình, và người có Nhân là phải tự thương mình, vì tự biết mình là Trí và tự thương mình là Nhân. Lời phát biểu ấy là kết quả của sự tu tập, lắng đọng nguồn tâm, thương mình thương người, biết mình biết người, với tầm nhận thức và truyền đi một cảm thọ, một nguồn nhân lực và trí lực đến tất cả… Như vậy, thời ấy Đức Khổng Tử có được một Nhan Hồi.

Thế nhưng ở thời Đức Phật, với lời tán dương công đức “Thiên nhơn chi đạo sư, tứ sanh chi từ phụ”. Lúc ấy trong giới cư sĩ có hai vợ chồng nhà vua là Pasenadi (Ba tư nặc) và hoàng hậu Mallika (Mạt Lợi), vua đang trị vì thiên hạ lại có một cảm nhận về ý thức giác ngộ thâm sâu trong lời dạy của Phật rằng: Một hôm trên thượng lầu hoàng cung, vua hỏi : “Nầy Mallika, có ai thân ái với hoàng hậu hơn là tự ngã của hoàng hậu ? Được trả lời: “Thưa đại vương, không có ai khác thân ái với thiếp hơn là tự ngã của thiếp”. Và trái lại, nhà vua cũng trả lời như vậy khi được hoàng hậu hỏi lại. Sau khi nghe và biết chuyện như thế, Đức Phật chứng minh qua lời kệ :

“Tâm ta đi cùng khắp

Tất cả mọi phương trời

Cũng không tìm thấy được

Ai thân hơn tự ngã…”

Kinh Tương Ưng I. III.

Thế thì thiết nghĩ trong đời, tùy vào tính chất và hình thành cuộc gặp gỡ của nó, có cuộc gặp gỡ thánh thiện, trong sáng, lành mạnh, hướng tâm đến sinh lộ pháp của bậc Thánh, bậc Chân nhân. Nhưng cũng có cuộc gặp gỡ phát xuất từ một ý niệm tha hóa, hoang vu, náo động, những yếu tố ấy thành một dạng thức trí nô, ký sinh tạm bợ, hạ liệt.

Nhưng, cho dù ở một trạng thái nào đi nữa, một khi đã hiển thị trong dòng cuộc sống, tất cả những công và việc, thực hay phi thực, chơn hay giả, theo cái nhìn của đạo Phật cho rằng; đều có một tác dụng lớn, nhằm đánh động tâm thức con người trên lộ trình Sanh tử và Niết bàn.

Nếu như không có chuyện thành công hay thất bại, còn hay mất, tốt hay xấu, khổ đau hay hạnh phúc, chơn hay vọng.v.v…, thì đạo Phật biết tựa vào đâu mà giáo hóa cho đời, và con người biết lấy chi mà làm tâm điểm để nhận thức trong cõi vô thường dâu bể nầy. Do đó, với lẽ thịnh suy, thăng trầm, tan hợp nơi kiếp sống của con người, điều nầy tưởng cũng không xa lạ gì đối với người đệ tử Phật. Điều mà chúng ta cũng cần thấy rằng; ta có còn dong ruỗi hay đang dừng lại bước thênh thang giữa dòng đời ảo hóa của buổi chợ phú hoa.

Như vậy, kết quả tâm có tu tập, tâm có nhu nhuyến, tâm dễ sử dụng, trước hết là người “biết sống một mình”, quán chiếu chính mình, tự nghe và tự dừng lại chính mình, thì muôn pháp trở thành nhứt tâm, và từ đó tỏa sáng, biến mãn khắp phương trời. Cảm thọ cũ lại một phen vụt tắt đi, để tiếp nhận một cảm thọ mới nối tiếp vào khoảnh khắc nơi đây và bây giờ.

Như dòng thác tuôn đi từ đỉnh cao, qua bao nhiêu khúc quanh, hốc đá, lùm cây, ngang qua dòng trong, dòng dục. Nhưng đâu phải để dừng lại những khúc đoạn ấy, dòng thác vẫn mãi miết đi, đi để gặp những dòng sông lớn hơn và rồi cùng xuôi ngọn về đại dương, va chạm với đại dương, hòa nhập trong đại dương. Cùng thế ấy, nếu như không ngang qua và cảm nhận được những tấn tuồng, những vỡ bi hài của trò đời muôn mặt, những ý vị bùi ngọt đắng cay…, thì ta nào biết được;

“Đâu là lời kinh Phật tụng

Giữa dòng đời triền miên

Mở ra nguồn tuệ giác

Người về cõi trang nghiêm”

Có lúc ngay cả Đức Phật cũng trở thành người độc hành giữa hội chúng tỳ kheo, sự kiện cuộc đấu tranh ở Kosambi (Kiều Thưởng Di) đã cho ta biết điều đó, và hơn ai hết, chính Đức Phật là người biết sống một mình, lặng lẽ, chiêm nghiệm dưới một gốc cây, cảm thọ giải thoát lạc giữa cảnh rừng không tiếng động ban trưa. Có lần Ngài cũng từ khước 500 vị tỳ kheo ở thôn “Xa đầu tụ lạc”, để tránh đi một hội chúng đệ tử đầy nhiệt não, ồn ào, tháo động, hơn thua phải quấy, khởi nguồn từ lợi dưỡng, địa vị, chức danh bèo bọt phù du, ở đây, ta mới thấy rằng:

“Khác thay duyên thế lợi

Khác thay đường Niết bàn”.

PC. 75.

Chiều nay, mây nghiêng bên thềm hoa cỏ, tiếng chim khách gọi trên cành xa, những giọt nắng rơi thành vô số những chấm vàng rây trên lối cỏ, bờ hoa, bên chung trà nghe vẳng tiếng chuông đưa, giây phút trở về và ngồi dưới chùa nay mà nhớ chùa xưa, nơi mà đã hơn 30 năm trải bao cuộc thăng trầm, buồn vui ấm lạnh, với thời gian không ngừng biến đổi. Mái chùa đơn sơ xưa mất đi ít nhiều của thời xa xưa, hình ảnh bình dị tươi mát “diệu hạnh” của nhà sư xưa cũng nhòa đi và trôi xa theo chiều bụi vẳng hôm nào, cũng nghe trống vắng đi bao lớp bạn bè cả đời và đạo thường tới lui với bao câu chuyện vơi đầy.

Thay vào đó, nay có một ngôi đạo tràng khang trang hoành tráng, từ mọi phương tiện thờ phượng, phòng ốc và những hình thức khác cũng được nâng lên theo cấp thời đại. Nếu như cùng thế ấy, sự khang trang hoành tráng, sự nâng cấp mọi sinh hoạt và hình thức theo tầm thời đại được thắp sáng từ một Tăng thân, từ một dòng lực “trực hạnh, chánh hạnh…” Thì điều đó đáng được cung kính trân trọng hơn bao giờ hết.

Tất cả mọi sự thay đổi đều đưa đến một cảm thọ mới, ý thức và từ bỏ một cảm thọ cũ, thay đổi là để tiến hóa, siêu hóa tâm linh, thay đổi là để nhận ra từng cung nhịp thời gian, không gian là “vô thường, khổ, vô ngã…” và để như :

“Với ai các tùy miên

Hoàn toàn không hiện hữu…

Vị tỷ kheo từ bỏ

Bờ nầy và bờ kia

Như loài rắn thoát bỏ

Da rắn cũ già xưa”

(Tiểu bộ, I, chương I).

Từ một năm, mười năm, rồi ba mươi năm và có hơn thế nữa, từng cột móc thời gian được nhổ lên, từng khoảnh khắc thời gian được thay đổi siêu hóa. Và tuyệt cùng hơn trong từng ý niệm tỉnh giác, tự mình quán chiếu với sự nhập cuộc trong dòng chảy, nhận thức đúng đắn khi đối diện với mọi hiện tượng… và cho đến :

Bao giờ tôi hiểu sâu lòng đất

Là thấy đường lên cõi Niết bàn” VHC.

Long Xuyên, một chiều Thu 2013

MẶC PHƯƠNG TỬ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2021(Xem: 4106)
Vào buổi sáng ngày 13 tháng 1 vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tổ chức một buổi tiếp kiến ảo với ông Robert A. Destro, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Dân chủ, Nhân quyền và Lao động, và Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng. Ông đã tham gia cùng các đồng nghiệp của mình từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Ông Robert A. Destro được bổ nhiệm làm Điều phối viên đặc biệt Hoa Kỳ về các Vấn đề Tây Tạng theo Đạo luật Chính sách Tây Tạng vào ngày 14 tháng 10 năm ngoái.
15/01/2021(Xem: 4592)
Tháng một năm 2021, dự kiến một nhóm gồm 10 nhà khoa học quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sẽ đến thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, điều tra nguồn gốc bệnh cúm Covid-19. WHO đang cố tìm ra nguồn gốc của virus gây bệnh cúm Covid-19 để ngăn chặn các đợt bùng phát trong tương lai. Dù virus xuất phát từ các chợ động vật hay các phòng thí nghiệm ở Vũ Hán, các nhà khoa học đều nhất trí giả thuyết virus có từ động vật. Loài dơi. Tháng 1 năm ngoái, khi Vũ Hán xuất hiện những ca nhiễm đầu tiên, các nhà dịch tễ học đã tìm thấy chủng virus corona ở một chợ bán động vật ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Những hình ảnh về sở thích ăn dơi sống, tiết canh dơi của người Vũ Hán lập tức được lan truyền khắp thế giới ngay khi dịch xuất hiện ở Vũ Hán. Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân của đại dịch là do virus corona lây lan từ động vật sang người.
15/01/2021(Xem: 4770)
Người xuất gia khi cạo râu cắt tóc (thế trừ tu phát, 剃除須 髮 [1]), từ bỏ cuộc sống gia đình, thệ nguyện theo con đường học đạo, giải thoát cho mình và cho chúng sinh. Người xuất gia nguyện không bị ràng buộc bởi phiền não của quá khứ và lo toan của tương tai. Bởi quá khứ đã đi qua, tương lai thì chưa tới. Bỏ mặc căn nhà, bỏ mặc tôi Bỏ mặc nơi đây, bỏ mặc người Bỏ trăm năm sau, ngàn năm nữa[2]
15/01/2021(Xem: 4655)
Niết Bàn là đích của người tu. Kinh văn Phật đề cập Niết Bàn, nơi chốn cực đẹp, ở đó không có phiền não, có bảy tầng lan can, bảy tầng lưới mành, bảy lớp hàng cây, đều bằng bốn báu vây quanh trọn khắp (thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thụ, giai thị tứ bảo châu táp vi nhiễu-七 重 欄 楯。七 重 羅 網。七 重 行 樹。皆 是 四 寶 周 繞[1]; Niết Bàn, một trạng thái viễn ly điên đảo mộng tưởng(遠離顛倒夢想[2].)
13/01/2021(Xem: 4481)
Vào thời đại này, kể cả đứa trẻ ba tuổi cũng biết dùng máy vi tính rất rành. Ngay trong sự sanh hoạt ngày thường, con người chỗ nào cũng đều có cơ hội tiếp xúc đến máy vi tính, như là xe hơi, dụng cụ nhà bếp, máy móc thương nghiệp, cơ giới công nghiệp, dụng cụ điều trị, thậm chí trong đồ chơi của trẻ con cũng có trang trí máy vi tính lớn nhỏ phức tạp và đơn giản không giống nhau. Đến nỗi ở trong cơ quan điều khiển tinh vi, máy vi tính lại càng không thể có khuyết điểm, chẳng hạn như Phi Cơ, Tàu Thủy, Tín Hiệu Vô Tuyến Truyền Đạt..v..v.... đều an trí máy vi tính rất đầy đủ cao cấp. Chính nơi trang bị quân sự, máy vi tính lại càng trọng yếu hơn. Cho nên con người hiện nay sanh hoạt đều càng ngày càng ỷ lại nhiều vào máy vi tính thì nó càng quan trọng hơn.
13/01/2021(Xem: 4608)
Tăng đoàn của Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley đã thông báo rằng, Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman (Tông Thuần, Sōjun, 宗純), vị Trưởng lão Thiền sư đáng kính của Thiền phái Tào Động (Sōtō Zen, 曹洞宗), Phật giáo Nhật Bản, vị Giáo thọ sư nổi tiếng đã viên tịch vào hôm thứ Năm, ngày 7 tháng 1 năm 2021. Hưởng thượng thọ 91 tuổi. Trưởng lão Thiền sư Mel Weitsman, người cùng với Trưởng lão Thiền sư Shunryu Suzuki Roshi (pháp danh Shōgaku Shunryū, 祥 岳俊隆, 1901-1971), đồng sáng lập Trung tâm Thiền Phật giáo Berkeley, một trung tâm thực hành Thiền phái Tào Động, Phật giáo Nhật Bản tại Berkeley, California, Hoa Kỳ vào năm 1967.
12/01/2021(Xem: 6358)
Kính thưa quý Phật tử, đồng hương xa gần kính mến, Trái đất xoay tròn, một năm nữa lại đến. Gió xuân, mai đào, bánh chưng, bánh tét... đang đem niềm vui mùa xuân đến cho hành tinh chúng ta. Quý Ni sư kính lời vấn an sức khỏe đến quý Phật tử, tri ân tình thương của quý vị trong thời gian qua, nhất là trong mùa đại dịch Covid Corona, quý vị luôn đồng hành ủng hộ để Chùa Hương Sen được yên ổn sinh hoạt và an tâm tu tập, tụng niệm.
12/01/2021(Xem: 4497)
Vương quốc Phật giáo Bhutan với diện tích và dân số khiêm tốn trên Himalaya đã báo cáo có ca COVID-19 đầu tiên tử vong, khoảng 10 tháng sau khi ca đầu tiên phát hiện Viruscorona, và cố gắng kiểm soát dịch bệnh bằng cách phong tỏa phần lớn đất nước phụ thuộc vào du lịch. Trong một thông báo đưa ra vào cuối ngày thứ Năm, ngày 7 vừa qua, Bộ Y tế Bhutan cho biết một người đàn ông 34 tuổi đã tử vong tại một bệnh viện ở thủ đô Thimphu do Covid-19, tiền sử có bệnh nền như gan mãn tính và suy thận, có kết quả xét nghiệm dương tính.
09/01/2021(Xem: 6877)
“Tha Nhân Là Địa Ngục” (L’enfre, cest les autres/Hell is other people) là câu nói thời danh của triết gia Pháp Jean Paul Sartre. Trong vở kịch nhan đề Huis Clos (Cửa Đóng) tiếng Anh dịch là “Không lối thoát” (No Exit) và tiếng Việt có nơi dịch là “Phía Sau Cửa Đóng” trong đó mô tả ba nhân vật lúc còn sống đã làm nhiều điều xấu. Khi chết bị nhốt vào địa ngục nhưng không phải là “địa ngục” với những cuộc tra tấn ghê rợn về thể xác mô tả trong các tôn giáo, mà bị nhốt vĩnh viễn trong một căn phòng kín. Tại đây ba nhân vật bất đồng, cãi vã nhau- không phải vì cơm áo mà vì quan điểm, sở thích, cách suy nghĩ, tư tưởng, lối sống. Cuối cùng một người không sao chịu đựng được đã thốt lên “Tha nhân là địa ngục”. Câu nói này trở nên nổi tiếng và tồn tại cho tới ngày nay.
07/01/2021(Xem: 5980)
Vào năm 2004, Thư Viện Anh Quốc đã mở cửa đón khách vào thưởng một “pháp bảo” của Phật giáo Trung Hoa mang tên “Kinh Kim Cang”, đó là một trong những cổ vật chính được trưng bày tại cuộc triển lãm “Con Đường Tơ Lụa. Bên cạnh cuốn “Kinh Kim Cang” còn có những cổ vật khác được giữ gìn hoàn hảo hơn 1000 năm qua như : một súc lụa, một tấm thảm trải trước lò sưởi tại ngôi nhà bỏ hoang đã 1.100 năm, một cuộn len 1300 năm tuổi … Phần lớn cổ vật trưng bày tại triển lãm được lấy từ bộ sưu tập của Sir Marc Aurel Stein.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]