Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài học nhân quả cuộc sống

09/04/201316:32(Xem: 5982)
Bài học nhân quả cuộc sống
give-receive

Một hôm, một người đàn ông trông thấy một bà lão với chiếc xe bị hư đậu bên đường. Tuy trời đã sẫm tối anh vẫn có thể thấy bà đang cần sự giúp đỡ. Vì thế anh lái xe tấp vào lề đậu phía trước chiếc Mercedes của bà rồi bước xuống xe. Chiếc xe cũ kỹ của anh vẫn nổ máy khi anh tiến đến trước mặt bà. Dù anh tươi cười nhưng bà lão vẫn tỏ vẻ lo ngại.

Trước đó 1 giờ đồng hồ không một ai dừng xe lại để giúp bà, người đàn ông này liệu có thể hãm hại bà không, trông ông không an toàn cho bà, vì ông nhìn có vẻ nghèo và đói. Người đàn ông có thể nhận ra nỗi sợ hãi của bà cụ đang đứng bên ngoài chiếc xe giữa trời lạnh. Anh biết cảm giác lo sợ của bà như thế nào rồi, cái rung đó, nỗi lo sợ trong lòng đó mới là lý do tự nó thành hình trong ta. Anh nói:

- “Tôi đến đây là để giúp bà thôi, bà nên vào trong xe ngồi chờ cho ấm, luôn tiện tôi tự giới thiệu, tôi tên là Ryan Anderson.

Thực ra thì xe của bà chỉ có một vấn đề là một bánh bị xẹp thôi nhưng đối với một bà già thì nó cũng đủ gây phiền não rồi. Ryan bò xuống phía dưới gầm xe tìm cách thay bánh xe và bị trầy da chỗ khuỷu tay cũng như lòng bàn tay 1-2 lần gì đó. Chẳng bao lâu, anh đã thay được bánh xe nhưng anh bị dơ bẩn và hai bàn tay bị đau rát.

Trong khi anh đang siết chặt mấy con ốc bánh xe, bà cụ xuống cửa kính và bắt đầu nói chuyện với anh, bà cho anh biết bà từ Saint Louis đến và chỉ mới đi được một đoạn đường. Bà không thể cảm ơn đầy đủ về việc anh đến giúp đỡ cho bà. Ryan chỉ mỉm cười trong lúc anh đóng nóc thùng xe của bà lại. Bà cụ hỏi bà phải trả cho anh bao nhiêu tiền.

Ryan chưa hề nghĩ đến điều là sẽ được trả tiền, đây không phải nghề của anh, anh chỉ giúp người đang cần được giúp đỡ vì Chúa, Phật hay chính bản thân anh cũng biết rằng đã có rất nhiều người trong quá khứ ra tay giúp anh. Anh đã sống cả đời mình như thế đó và chưa bao giờ anh nghĩ sẽ làm chuyện ngược lại. Anh nói với bà cụ:

blank

- “Nếu bà thực sự muốn trả ơn cho tôi thì lần khác khi bà biết ai cần được giúp đỡ, bà có thể sẵn sàng cho người ấy sự giúp đỡ của bà, (và Ryan nói thêm) và hãy nghĩ đến tôi.”

Anh chờ cho bà cụ nổ máy và lái xe đi thì anh mới bắt đầu lên xe của mình đi về. Hôm ấy là một ngày ảm đạm và lạnh lẽo nhưng anh lại cảm thấy thoải mái khi lái xe về nhà.

Chạy được vài dặm trên con lộ, bà cụ trông thấy một tiệm ăn nhỏ, bà ghé lại tìm cái gì đấy để ăn và để đỡ lạnh phần nào trước khi bà đi đoạn đường còn lại về nhà. Đó là một nhà hàng ăn trông có vẻ không được thanh lịch, bên ngoài là hai bơm xăng cũ kỹ, cảnh vật rất xa lạ với bà.

Chị hầu bàn bước qua chỗ bà ngồi, mang theo một khăn sạch để bà lau tóc ướt. Chị mỉm cười vui vẻ với bà dù đã phải đứng suốt ngày nay để tiếp khách. Bà cụ để ý thấy chị hầu bàn này đang mang thai khoảng 8 tháng gì đó. Nhưng theo quan sát của bà, bà thấy sẽ không bao giờ sự căng thẳng hay đau nhức có thể làm chị thay đổi thái độ. Rồi tự dưng bà lại chợt nhớ đến anh chàng tên Ryan hồi nãy, và bà cụ vẫn còn thắc mắc, không hiểu tại sao một người trông có vẻ thiếu thốn đến như thế mà lại sẵn lòng cho một người lạ rất nhiều.

Sau khi ăn xong bà trả bằng tờ giấy bạc 100 đô la. Chị hầu bàn mau mắn đi lấy tiền để thối lại tờ bạc 100 USD của bà cụ. Nhưng bà cụ đã cố ý nhanh chân bước ra khỏi cửa mất rồi. Lúc chị hầu bàn quay trở lại thì bà cụ đã đi khuất. Chị hầu bàn thắc mắc, không biết bà cụ kia có thể đi đâu. Khi dọn dẹp, chị để ý trên bàn có dòng chữ viết trên chiếc khăn giấy lau miệng. Nước mắt tràn mi khi chị đọc dòng chữ mà bà cụ viết:

blank

“Cô sẽ không nợ gì tôi cả. Tôi cũng đã từng ở vào tình cảnh thiếu thốn giống như cô hiện nay, có ai đó đã một lần giúp tôi giống như bây giờ tôi đang giúp cô. Nếu cô thực sự nghĩ rằng muốn trả ơn lại cho tôi thì đây là điều cô nên làm. Đừng để cho chuỗi tình thương này kết thúc ở nơi cô”.

Bên dưới tấm khăn giấy lau miệng bà cụ còn lót tặng thêm bốn tờ giấy bạc 100 đô la nữa. Còn có những bàn ăn cần lau dọn, những hủ đường cần đổ đầy và những khách hàng để phục vụ, và chị hầu bàn đã hoàn tất những việc ấy để sửa soạn cho qua ngày mai.

Tối hôm đó đi làm về và đã leo lên giường nằm, chị vẫn còn nghĩ về cái số tiền và những gì bà cụ đã viết. Làm thế nào mà bà cụ lại biết được chị và chồng của chị đang cần số tiền ấy cho sự sanh nở của đứa bé vào tháng tới?. Chị biết chồng chị lo lắng đến mức nào và trong lúc anh nằm ngủ cạnh chị, chị trao anh một cái hôn nhẹ và thì thào bên tai anh:

- “Mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả, em yêu anh, Ryan à!”

Chị đâu có biết Ryan đã thay bánh xe cho bà già tội nghiệp trước đó.

Người xưa có câu “Gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy“. Khi ta làm việc gì tốt đẹp cũng đừng mong được báo đáp, vì khi làm 1 điều gì tốt ta mong báo đáp liền cũng giống như gieo 1 hạt, không chờ cây lớn mà bắt cây ra quả thu hoạch liền thì quả đó sẽ không tốt và cây cũng khó phát triển. Khi ta gieo 1 điều gì tốt phải cần có thời gian, khi nào đủ duyên rồi thì quả đó sẽ tự lớn và nhiều điều tốt đẹp khác cũng sẽ đến với chúng ta.

Hôm nay tôi gửi bạn câu chuyện này và tôi mong bạn chuyển tiếp nó, hãy để cho ngọn đèn này chiếu sáng, đừng xóa nó, đừng gửi nó trở lại. Chỉ việc chuyển câu chuyện này đến những người bạn, những người bạn tốt giống như những vì sao, bạn không luôn luôn trông thấy họ nhưng bạn biết họ luôn luôn có mặt ở đó.

Trang nhà Quảng Đức st
Nếu ai biết dịch giả câu chuyện trên, xin hoan hỷ cho biết để ghi nhận, chân thành cảm ơn quý độc giả (Thích Nguyên Tạng, 30-4-2014, email: [email protected] )



01.apple
Nhân quả đã sắp xếp cho mọi người từ khi sinh ra cho đến khi chết, chớ không phải như người ta nghĩ rằng trên đời này mọi sự xảy ra đều do ngẩu nhiên. Bệnh tật hay tai nạn xảy ra nặng hay nhẹ đều do nhân quả của người đó, chính họ đã tạo ra ác pháp nên nó sắp xếp vào giờ, ngày, tháng, năm để người đó trả quả không bao giờ sai. Vì vậy ai tạo nhân nào thì gặt quả nấy không thể trốn chạy dù trốn chạy bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi quy luật nhân quả.

Nhân quả của mọi người là do mọi người làm ra chớ không phải nhân quả từ trên trời rơi xuống hay có một người nào ban giáng nhân quả cho họ. Cho nên một người thông suốt nhân quả, khi họ làm một điều gì thì rất cẩn thận tư duy suy nghĩ kỹ lưỡng xem việc làm đó ác hay thiện, nếu việc làm đó là thiện thì sẽ không làm khổ mình, khổ người và chúng sinh; còn ngược lại là ác pháp. Khi tư duy thấu rõ như vậy nhất định ác pháp chúng ta sẽ không làm.

Trên đời này chỉ có làm lợi ích và đem lại nguồn vui cho mọi người thì chúng ta vui vẽ cứ làm. Bởi vì làm lợi ích cho mọi người tức là mang LÒNG YÊU THƯƠNG đến với họ. Đây chúng ta hãy đọc “LÒNG BIẾT ƠN VÀ NIỀM MƠ ƯỚC”.

“Một ngày nọ, một gia đình quý tộc giàu có nước Anh đã đưa con về miền quê nghỉ mát. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xảy ra: cậu con trai nhỏ của họ đã sa chân ngã xuống một vực nước sâu. Tất cả tưởng như vô vọng, không còn phương cách nào cứu sống cậu bé không biết bơi. Thế rồi, từ xa nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé nhem nhuốc, con của người nông dân nghèo trong vùng, đã chạy đến tiếp cứu!

Nhà quý tộc đã hết sức biết ơn cậu bé nhà nghèo. Thay vì chỉ nói lời cảm ơn và kèm theo một ít tiền hậu tạ, ông ân cần hỏi cậu bé:
- Khi lớn lên cháu muốn làm gì?
- Cậu nhỏ nhẹ thưa:
- Thưa ông, chắc cháu sẽ tiếp tục làm ruộng của cha cháu.
Nhà quý tộc lại gặng hỏi:
- Thế cháu không còn ước mơ nào lớn hơn nữa sao?
Cậu bé im lặng một lúc rồi mới trả lời:
- Dạ thưa bác nhà cháu nghèo thế này thì cháu còn biết ước mơ điều gì nữa đây?
Lại tiếp tục câu hỏi chân tình:
- Nhưng bác muốn biết là nếu cháu được phép ước mơ thì cháu ước mơ điều gì?
Và lần này cũng là một câu trả lời thật thà:
- Thưa bác, cháu muốn đi học, cháu muốn trở thành một bác sĩ.

- Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi được cứu sống đã trở thành một vĩ nhân thế giới, đã làm cho cả nước Anh hãnh diện, tự hào, đó là Thủ tướng Wiston Churchill.

Còn cậu bé quê nhà nghèo đã không còn chỉ biết đặt ước mơ đời mình như cụm cỏ bờ đê. Cậu đã trở thành một bác sĩ lừng danh thế giới, cũng đồng thời là ân nhân của cả nhân loại khi tìm ra được thuốc trụ sinh Pénicillin. Tên của ông là Alexander Fleming.

Không ai ngờ rằng đến khi Thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, cả vương quốc đã đi tìm những vị danh y lừng lẫy để cứu sống nhà lãnh đạo tối cao của mình. Tất cả đã bó tay. Thế rồi bác sĩ A Fleming đã tự ý tìm đến và ông đã cứu sống, một lần nữa, người mà ông đã cứu sống năm xưa”.

Đọc xong câu chuyện chúng ta nhận xét: Đúng là nhân quả đã sắp xếp, khi còn bé thủ tướng Wiston Churchill gặp tai nạn thì được Alexander Fleming cứu sống. Khi Wiston Churchill làm thủ tướng nước Anh lâm bệnh nặng mà không một vị y bác sĩ nào trị được, cuối cùng cũng chỉ có Alexander Fleming cứu sống.

Đấy là nhân quả đã sắp xếp có sự liên hệ người này với người kia, cho nên bác sĩ Alexander Fleming và thủ tướng nước Anh Wiston Churchill đã nhiều lần giúp đỡ nhau. Bởi vậy người hiểu biết nhân quả thì không bao giờ tin có sự ngẩu nhiên mà tin nhân quả nhiều đời.

3/

  1. Nếu bạn gieo thành thật, bạn sẽ gặt lòng tin
  2. Nếu bạn gieo lòng tốt, bạn sẽ gặt thân thiện
  3. Nếu bạn gieo khiêm tốn, bạn sẽ gặt cao thượng
  4. Nếu bạn gieo kiên nhẫn, bạn sẽ gặt chiến thắng
  5. Nếu bạn gieo cân nhắc, bạn sẽ gặt hòa thuận
  6. Nếu bạn gieo chăm chỉ, bạn sẽ gặt thành công
  7. Nếu bạn gieo tha thứ, bạn sẽ gặt hòa giảiNếu bạn gieo cởi mở, bạn sẽ gặt thân mật
  8. Nếu bạn gieo chịu đựng, bạn sẽ gặt cộng tác
  9. Nếu bạn gieo niềm tin, bạn sẽ gặt phép màu

Nhưng:

  1. Nếu bạn gieo dối trá, bạn sẽ gặt ngờ vực
  2. Nếu bạn gieo ích kỷ, bạn sẽ gặt cô đơn
  3. Nếu bạn gieo kiêu hãnh, bạn sẽ gặt hủy diệt
  4. Nếu bạn gieo đố kỵ, bạn sẽ gặt phiền muộn
  5. Nếu bạn gieo lười biếng, bạn sẽ gặt mụ mẫn
  6. Nếu bạn gieo đắng cay, bạn sẽ gặt cô lập
  7. Nếu bạn gieo tham lam, bạn sẽ gặt tồn hại
  8. Nếu bạn gieo tầm phào, bạn sẽ gặt kẻ thù
  9. Nếu bạn gieo lo lắng, bạn sẽ gặt âu loNếu bạn gieo tội lỗi, bạn sẽ gặt tội lỗi.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2021(Xem: 5611)
Một khuôn mặt trong một tấm gương xuất hiện là một khuôn mặt, nhưng thế nào đi nữa hình ảnh đấy không là một khuôn mặt thật sự; đấy là từ những quan điểm trống rỗng về sự hiện hữu của một khuôn mặt. Giống như thế, một nhà huyển thuật có thể gợi lên những ảo ảnh dường như là những thứ thật sự. như một người ở trong một cái thùng bị xiên bởi một cây gươm, nhưng tất cả hoàn toàn không được tạo ra thật sự như những thứ được thấy. Tương tự thế, các hiện tượng như thân thể hiện diện được tạo ra từ chính phía của đối tượng nhưng trống rỗng trong việc được thiết lập cách ấy và luôn luôn như thế.
04/01/2021(Xem: 5523)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa ra nhận xét chính thức đầu tiên về việc nghỉ hưu, từ các trách nhiệm chính trị trong một buổi giảng dạy công khai tại Tsuglagkhang, Dharamshala, ngày 19 tháng 3 năm 2011. Năm 1963, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban hành một Hiến pháp Dân chủ (democratic constitution) hoàn toàn dựa trên Giới luật Phật giáo, và bản Hiến chương Nhân quyền của Liên Hợp Quốc để biên soạn, và chuẩn bị cho một mô hình đất nước Tây Tạng tự do ở tương lai:
04/01/2021(Xem: 6925)
Ngày Xuân ngày Tết, nếu ai tìm những giờ phút thanh thản yên tịnh bằng những bước nhẹ nhàng khoan thai vào vãng cảnh các chùa chiền tự viện, dâng hương bái Phật, nếu để ý sẽ thấy ở một vách tường nào đó treo bộ tranh mang tên gọi là “Thập mục ngưu đồ”. Không phải chốn già lam thiền viện nào cũng có trưng treo, vì đó không phải là điều bắt buộc thuộc thanh quy giới luật, nhiều khi chỉ được treo để trang trí, hay được trưng ra ở một nơi hằng ngày đi qua đi lại như để nhắc nhở, vậy nếu khi ta bắt gặp được tức là ta đang hữu duyên, hãy đừng bỏ dịp đứng trước bộ tranh mang những nét sơ sài ấy để ngắm từng bức mà chiêm nghiệm nghiền ngẫm.
04/01/2021(Xem: 4312)
Phật Vàng (Golden Buddha) có tên chính thức trong tiếng Thái là “Phra Phuttha Maha Suwana Patimakon”, nặng 5,5 tấn. Sau nhiều lần di chuyển, pho tượng hiện đang nằm trong đền thờ Wat Traimit, Bangkok, Thái Lan. Hiện tại, mặc dù các học giả vẫn chưa xác định chắc chắn nguồn gốc của pho tượng là bắt nguồn từ thời gian nào. Nhưng dựa theo cấu trúc của phần đầu bức tượng (hình quả trứng), thì có thể đoán rằng, nó ra đời vào dưới triều Sukhothai vào thế kỷ 13 – 14 – một trong những giai đoạn nổi tiếng nhất của nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Thái Lan.
03/01/2021(Xem: 9144)
Một Số Danh Tăng Việt Nam Tuổi Sửu Thiền sư TRÌ BÁT (Kỷ Sửu 1049) Thiền sư TỊNH THIỀN (Tân Sửu 1121) Hoà thượng THÍCH ĐẠT THANH (Quý Sửu 1853) Hoà thượng THÍCH GIÁC NHIÊN (Đinh Sửu 1877) Thiền sư THÍCH CHƠN PHỔ - THUBTEN OSALL LAMA (Kỷ Sửu 1889) Hoà thượng THÍCH BỬU LAI (Tân Sửu 1901) Hoà thượng THÍCH THIÊN ÂN (Ất Sửu 1925) Hoà thượng THÍCH MINH THÀNH (Đinh Sửu 1937)
03/01/2021(Xem: 5475)
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Với một nước nông nghiệp như nước ta, hình ảnh con trâu nặng nề lầm lũi, kềnh càng cục mịch luôn gắn bó với những cánh đồng thửa ruộng, thân thiết với bao người nông dân chân lấm tay bùn, và gần gũi với lũ trẻ mục đồng thường nghêu ngao bài hát quen thuộc “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!”… Không chỉ như thế, trâu cũng đã từng gắn bó với cuộc đời một vài danh nhân lịch sử như Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ… Đối với nền văn học nước nhà, con trâu còn có cái công rất lớn trong việc làm phong phú ngôn ngữ, nhất là trong ca dao- đồng dao-tục ngữ.
01/01/2021(Xem: 5102)
Từ lâu các kinh sách Phật Giáo Việt Nam bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ âm Hán Việt của Trung Quốc. Từ những được chư tôn thiền đức Tăng Ni chuyển qua quốc ngữ tiếng Việt, để Phật tử dễ đọc, nhất là những vị chưa có kiến thức về âm Hán Việt. thế kỷ 20 (năm 2000 trở đi) các kinh sách dần dần đã Người biên soạn xuất gia tại Chùa Liên Hoa, Bình Thạnh, với Tôn Sư Hải Triều Âm, các kinh sách trong Chùa tụng bằng tiếng Việt do Tôn sư chuyển ngữ. Từ năm 2005 trở đi, người biên soạn định cư và hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Nhiều Chùa ở Hoa Kỳ vẫn còn tụng kinh bằng âm Hán Việt và nhiều nơi phải tụng bằng tiếng Anh cho người bản địa và thế hệ con cháu thứ hai sanh tại Mỹ có thể tụng hiểu được. Phật tử Việt tụng kinh bằng tiếng Việt mà vẫn chưa hiểu được ý nghĩa ẩn sâu trong lời kinh và càng bối rối hơn khi tụng kinh bằng bằng âm Hán Việt. Đó là lý do thúc đẩy, chùa Hương Sen biên soạn một cuốn “NGHI LỄ HÀNG NGÀY” bằng tiếng Việt và tổng hợp gần 50 bài kinh:
01/01/2021(Xem: 5697)
Trong kho tàng văn học của Việt Nam và Phật Giáo, Trần Thái Tông (1225 - 1258) đã có những đóng góp vô cùng to lớn và giá trị, những sáng tác của Ngài, bất hủ qua dòng thời gian, tỏa sáng lồng lộng trên bầu trời Dân Tộc và Đạo Pháp. Trần Thái Tông được kể như một vị Thiền sư cư sĩ vĩ đại, nhà thiền học uyên thâm, thành tựu sự nghiệp giác ngộ. Một vị vua anh minh dũng lược, chiến thắng quân Nguyên Mông giữ gìn bờ cõi, đem lại cường thịnh ấm no cho dân cho nước, đã để lại tấm lòng cao quý thương yêu đời đạo, lưu lại di sản trí tuệ siêu thoát cho hậu thế noi theo.
29/12/2020(Xem: 6196)
Tịch tĩnh bất động hay định lực có thể đè nén những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng, nhưng nó không thể loại trừ hoàn toàn chúng. Tuệ giác nội quán là cần thiết bởi vì như được giải thích trước đây, nó có thể loại trừ hoàn toàn những cảm xúc phiền phức và những rối rắm hậu quả của chúng. Thiền ổn định (chỉ) và thiền phân tích (quán) bây giờ phải làm việc với nhau. Khi chúng thể hiện chức năng cách này, chúng có thể nhổ gốc những cảm xúc phiền phức và loại trừ những giới hạn của thông tuệ vì thế chúng ta có thể hoàn thành mục tiêu tối hậu của việc giúp đở những kẻ khác một cách hiệu quả hơn.
29/12/2020(Xem: 5203)
Thơ thiền Nhật bản là cả một thế giới thi ca độc đáo, tiêu biểu cho tư tưởng và chủ trương tu tập của thiền học Zen, nhất là qua một thể thơ cực ngắn gọi là haiku. Điểm đáng lưu ý và cần nêu lên trước nhất là thơ thiền Nhật bản khác hẳn với thơ Đường của Trung quốc. Một số học giả, kể cả các học giả Tây phương, dường như đôi khi không nhận thấy được sự khác biệt này khi mang ra phân tích và tìm hiểu tinh thần Phật giáo chung cho cả hai thế giới thi ca trên đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]