Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tâm không vướng mắc

04/11/201416:19(Xem: 7329)
Tâm không vướng mắc
Buddha_1

Trong đời sống chúng ta thấy một số người có những quan niệm rất ngộ nghĩnh, hay kỳ quặc. Nhiều người trong họ là những người có ăn học, trí thức nhưng họ lại tin vào những điều huyền hoặc, không tưởng. Như có người tin rằng các loài khủng long bị diệt chủng là do các nhà khoa học chế tạo ra, chứ không có thật. 

Từ đó chúng ta dễ dàng tìm thấy những khái niệm và suy nghĩ trong đời sống, ăn khớp với quan niệm của mình. Chúng ta nhìn chung quanh bằng cặp mắt được tô màu bởi những quan niệm, niềm tin của mình. Cả những điều mình cho là đúng hay sai cũng được những quan niệm của mình tô vẽ.

Giống như một người đeo cặp kính màu do họ tạo ra. Họ sẽ nhìn thấy thế giới theo cặp kính màu đó nên sẽ khó có thể cảm thông với một người nào có những quan niệm khác hơn của họ. Vì có những quan niệm như vậy, trong tâm trí họ sẽ tự động loại bỏ những ý tưởng, hay quan niệm đối nghịch. Cách nhìn, cách sống, cách hành xử cũng theo đó mà hình thành. 
 
Ví dụ, có người quan niệm rằng ‘thà ta phụ người, chớ không để người phụ ta’. Cho nên mọi mối liên hệ từ tình cảm đến vật chất đều chỉ nghĩ lợi về cho mình. Trong đầu của họ luôn tính toán những kế hoạch, bước đi nào mà đem lợi về cho họ nhiều nhất, kể cả trong vấn đề tình cảm.

Hoặc như khi đang yêu, chúng ta sẽ bỏ qua những khuyết điểm của người yêu và chỉ chuyên nhìn vào những ưu điểm của người đó. Chúng ta thấy người đó thật hoàn hảo và, dù có người chỉ ra những điểm dở, chúng ta hầu như hoàn toàn không nhìn thấy. Có khi mình còn cho rằng những người kia có thành kiến với người yêu của mình. Cho nên tục ngữ có câu: “Yêu là mù quáng”. 
 
Nhưng khi chúng ta không còn yêu nữa thì những nét đặc biệt đáng yêu thuở xưa cũng bắt đầu phai nhạt dần. Chúng ta bắt đầu thấy những khiếm khuyết của người yêu mà mình mù quáng, không thấy lúc đang yêu.

Trong kinh Trung bộ (kinh số 74), Đức Phật giảng về ba quan điểm khác nhau mà người đời phần nhiều bị vướng mắc nên dễ sanh phiền não. Đức Phật phân tích: “Một số người tuyên bố: tất cả đều làm tôi thích thú. Một số người tuyên bố: tất cả đều không làm tôi thích thú. Một số người nói: một phần làm tôi thích, một phần làm tôi không thích. Quan điểm đầu gần với tham dục, trói buộc, chấp thủ. Quan điểm hai gần với không tham dục, không trói buộc, không chấp thủ. Khi nghe vậy, Trường Trảo cho rằng Phật tán dương quan điểm mình. 
Nhưng Phật bình tĩnh tiếp tục phân tích: Ai chủ trương: một phần làm tôi thích, một phần làm tôi không thích, thì các phần làm họ thích là gần với tham dục, trói buộc, chấp thủ; phần làm họ không thích là gần với không tham dục, không trói buộc, không chấp thủ. 
 
Người trí nhận thức rằng, nếu nói lên bất kỳ một quan điểm nào trong ba quan điểm trên, và cho đấy là sự thật, ngoài ra đều sai, thì sẽ chống lại hai hạng người chủ trương hai quan điểm kia. Tóm lại, có kiến chấp là có đối nghịch, đối nghịch đưa đến tranh luận, tranh luận đưa đến chống đối, chống đối đưa đến phiền não. Thấy thế, vị này hủy bỏ những tri kiến ấy” (Ni sư Trí Hải tóm tắt & chú giải).

Riêng Đức Phật có thể sử dụng ngôn ngữ thế gian nhưng không bao giờ bị vướng mắc vì Ngài thấu hiểu có kiến chấp thì sẽ đem đến phiền não và khổ đau. Kiến chấp này là những kinh nghiệm chúng ta lượm lặt trong đời sống và cho chúng là những sự thật sẽ mang lại lợi lạc cho bản thân. Chính vì những quan niệm này đã nhào nặn chúng ta thành một khuôn mẫu, một cá tính nhất định. Và từ đó, hình thành một con người với một cặp kính màu và quan niệm như vậy. 
 
Chẳng hạn, theo thống kê của Sở Xã hội Hoa Kỳ, các cháu gái chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình sẽ có khuynh hướng trở thành nạn nhân bị hành hạ bởi bạn trai hay chồng. Riêng các cháu trai chứng kiến những cảnh bạo động trong gia đình, như ba đánh đập mẹ… sẽ có nhiều khả năng trở thành người chồng vũ phu trong tương lai, tiếp tục cái vòng lẩn quẩn này vì những kinh nghiệm, quan niệm chúng học được từ cha mẹ mình. 
 
Rõ ràng, cái mà chúng ta nói là ‘học được’, dù tốt hay xấu, được giữ lại trong tâm thức để tạo duyên cho những cái khác sinh ra. Chính do cái tâm chấp thủ hay kiến chấp này đã đưa đẩy, lèo lái chúng ta thành ra một người như vậy. 

Khi niệm Phật, hay lúc thiền quán là chúng ta đang học cách buông xả. Mình buông xả quá khứ lẫn tương lai, và cả luôn hiện tại vì hiện tại cũng chỉ thoáng qua trong giây lát. ‘Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm’ nghĩa là không trụ vào đâu cả thì tâm giác ngộ sẽ có mặt. Như chúng ta biết, Lục tổ Huệ Năng đã giác ngộ qua câu này trong kinh Kim cương, và cũng chính vì hiểu rõ ý nghĩa của ‘vô trụ’ mà Ngài đã đối lại bài kệ của Tổ Thần Tú như sau:

Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhá trần ai
(Tổ Thần Tú)

Thân như cây bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi nhơ.
(Hòa thượng Thanh Từ dịch)

Bồ đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai.
(Lục Tổ Huệ Năng)

Bồ-đề vốn không cây, 
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ?
(Hòa thượng Thanh Từ dịch)

Ý nghĩa của tâm không vướng mắc chúng ta thấy rất rõ trong bài kệ của ngài Huệ Năng. Không có một khái niệm, hay một quan niệm nào để bám víu trong bài kệ trên. Khi thiền quán với tâm không vướng mắc chúng ta cảm thấy mình như lá sen, không bị nước bùn dơ hay nước hồ sạch đọng lại. 
 
Tất cả đều trôi đi, không còn lại một dấu vết gì! Như lời Đức Phật dạy ở trên: “Có kiến chấp là có đối nghịch, đối nghịch đưa đến tranh luận, tranh luận đưa đến chống đối, chống đối đưa đến phiền não”. Cũng như trong kinh Bát nhã mà chúng ta tụng đọc hàng ngày: “… Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã Ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn”.

‘Vì không có sở đắc
Khi một vị Bồ-tát
Nương Diệu Pháp Trí Độ
(Bát-nhã Ba-la -mật)

Thì tâm không chướng ngại
Vì tâm không chướng ngại
Nên không có sợ hãi
Xa lìa mọi vọng tưởng
Xa lìa mọi điên đảo
Đạt Niết-bàn tuyệt đối’  
(Thiền sư Nhất Hạnh - bản dịch cũ)

Vì tâm không chướng ngại, không vướng mắc nên tâm không bị khuấy động, không vọng tưởng, điên đảo, sợ hãi. Không chấp thủ vào nhị nguyên đối đãi, có có, không không… Cũng như Phật đã dạy về pháp duyên sinh: “Hễ cái này có, thì cái kia có. Hễ cái này không thì cái kia không”. Vì tâm không tạo duyên để cái kia sinh nên tất cả các hiện tượng sau khi có mặt đều tự biến mất. Như Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1072-1116) đời Lý có sáng tác thi kệ sau:

Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu vô như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không

Bài kệ được Phan Kế Bính dịch thơ:

Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Thử xem bóng nguyệt dòng sông
Ai hay không có, có không là gì? 

Thiện Ý
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2018(Xem: 11800)
Ngôi chùa nọ trên núi có nuôi một con lừa, mỗi ngày nó đều ở trong phòng xay thóc lúa vất vả cực nhọc kéo cối xay, thời gian lâu dần, lừa ta bắt đầu chán ghét cuộc sống vô vị này. Mỗi ngày nó đều trầm tư, “nếu như có thể ra ngoài ngắm xem thế giới bên ngoài, không cần kéo cối xay nữa, như thế thật là tốt biết mấy!”
05/05/2018(Xem: 5251)
Tin vui nóng hổi dừng chổi đứng nghe: "Tâm Không chuẩn bị tuyển chọn thêm nhiều truyện ngắn Phật giáo để in tiếp một tuyển tập thứ hai nhé!"
05/05/2018(Xem: 5212)
Cuộc sống không ai tránh khỏi những phiền muộn, rắc rối. Phước duyên lớn thì chướng duyên nhẹ. Thế gian xem nhẹ phước báu, hành động tội lỗi, gây nhiều ác nghiệp, dĩ nhiên sẽ gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cuộc sống.Người tin nhân quả, cân nhắc từng lời nói, ý nghĩ, hành động tránh gây đau khổ cho kẻ khác, làm nhiều việc thiện, chướng duyên cũng sẽ giảm thiểu.
02/05/2018(Xem: 6239)
Anh à, chiều hôm qua, chị và cháu đến nhà em. Chị đứng ngoài cửa sổ gọi vọng vào: "Chú Hữu ơi... Chú Hữu ơi!" Tiếng gọi thân quen của chị thường gọi em qua điện thoại, hôm nay nghe sao có gì đó dè dặt rụt rè, không như bao lần mang âm sắc hốt hoảng, lắp bắp, nghẹn ngào mỗi khi gặp chuyện chẳng lành, việc chẳng yên.
01/05/2018(Xem: 7817)
1- Mỗi lần bị anh Hưng ăn hiếp, nghĩ mình là em, thân nhỏ bé ốm yếu không thể chống cự lại cái ông anh to đùng và mập thù lù kia, ức quá nên Thịnh chỉ còn biết nước… khóc. Khóc thật là to và “đã”. Khóc xong thì thấy nhẹ hẳn cả người, không còn thấy bực tức nữa.
01/05/2018(Xem: 4842)
Tối hôm qua là một tối đáng nhớ trong đời. Một buổi tối thật vui, đầy tiếng cười và cả nước mắt. Chú Thạc đột ngột trở về từ một phương trời xa xôi cách nửa vòng trái đất, sau hơn ba mươi năm sống tha hương nơi đất khách quê người. Chú rời xa quê hương khi Thuý Loan còn là một hạt bụi nhỏ nhoi bay lơ lững ở một khoảng không mênh mông nào đó. Hai chú cháu chỉ biết mặt nhau qua mấy tấm ảnh kèm theo trong những lá thư đầy tình thương nhớ mà thi thoảng chú gửi về, cũng như bố mẹ gửi đi…
01/05/2018(Xem: 13390)
Thông Báo Hành Hương Phật Tích Ấn Độ (2018)
29/04/2018(Xem: 11198)
Sông Hằng là con sông thiêng liêng nhất được tôn thờ như một nữ thần hoặc như là một bà mẹ truyền ban sức sống ở Ấn Độ và được xem là nguyên mẫu của tất cả dòng nước thiêng liêng trên thế giới. Từ những thời đại sớm nhất, dọc bờ sông đã có hàng triệu những người không thể đếm được đến đây để tắm, cầu nguyện, uống nước thánh và quăng tro người chết.
29/04/2018(Xem: 8380)
Sư Bà Hải Triều Âm sanh trưởng tại tỉnh Hà Đồng –Hà nội năm 1920. Sư bà là một trong số ít các bậc nữ lưu sống trong thời kỳ Pháp thuộc, có văn bằng Diplome D’étude Primaire Supérieur, trở thành một cô gíao đoan trang thông tuệ mẫu mực, lấy việc dạy học làm sự nghiệp cho đời mình. Sư Bà cũng là một trong những vị sáng lập và phát triển nhiều gia đình Phật Tử ở Hà Nội Hải Phòng mà thời bấy giờ thường gọi là gia đình Phật Hóa Phổ. Qua một dịp nghe được sư cụ Thích Tuệ Nhuận giảng kinh Lăng Nghiêm ở chùa Quán Xứ, đến phẩm Quán Âm Quảng Trần và chương Đại Thế Chí Niệm Phật, cô giáo Catallan Nguyễn Thị Ni hốt nhiên lãnh hội được sự vi diệu của Phật Pháp và quy y với Đức Pháp Chủ Thích Mật Ứng, được ngài ban cho pháp danh Hải Triều Âm. Sư Bà xuất gia năm 1949 tức là năm Sư Bà 29 tuổi, với Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Đức Nhuận tại chùa Đồng Đắc.
29/04/2018(Xem: 7335)
Đức Phật dạy có nhiều cách bố thí khác nhau như: Pháp thí: bố thí Phật pháp ý nghĩa cao thượng giải thoát. Tài thí: bố thí tiền bạc. Vật thí: bố thí vật chất. Vô úy thí: bố thí sự không sợ hãi. Nhan thí: bố thí nụ cười. Ngôn thí: bố thí ái ngữ. Tâm thí: bố thí tâm hòa ái, lòng biết ơn. Nhãn thí: bố thí ánh mắt yêu thương hiền từ. Thân thí: bố thí hành động nhân ái, thân thế. Phòng thí: bố thí phòng ốc chỗ ở giường nằm. Dược thí: bố thí thuốc….
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]