Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Đừng Mơ Tưởng... (Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)

17/11/201209:19(Xem: 6715)
08. Đừng Mơ Tưởng... (Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)

Đừng Mơ Tưởng
...

(Hay: Kinh Người Biết Sống Một Mình)
Nguyên Thảo

Tôi không hiểu vì sao, hoặc là do nghiệp chướng nào từ kiếp xa xưa, khi tôi bắt đầu lớn lên, tôi không thấy mình an tâm, trước mắt mình như có một màn gì mờ mờ ảo ảo. Tôi làm việc gì thường hay bỏ dở vào giai đoạn sau cùng và lúc nào cũng mang tâm trạng chán nản, mông lung..!

Con người tôi không thực mà cũng chẳng hư. Từ đó ý tưởng, cách sống của tôi nó như là hư hư thực thực, Có người bạn cay cú đùa tôi “sống không ra sống, chết không ra chết”. Chính từ điều ấy, lúc nằm trên giường bệnh tôi cố gắng bỏ đi mọi phiền não, và định lại tâm mình, tôi mới hiểu cái tâm lý của người tu thiền của một vài phái thiền: Ai cũng mong muốn, cầu được nhanh chóng giải thoát khỏi cảnh khổ đau, luân hồi, trầm luân của thế gian. Nhưng đâu phải một ngày, một buổi! Để rồi mình “mê” ngồi thiền bỏ con cái “bơ vơ” hay bê trễ công ăn việc làm mà cầu mong cho chính mình giải thoát.

Trong thế gian này người thật thì ít, người giả thì nhiều, đây là một thế giới lẫn lộn người và ma, là một trường thi mà con người cần tiến tu để trở về với chân tâm giác ngộ giống như Hòa Thượng Thích Tâm Thanh (Đại Ninh- Lâm Đồng) đã giảng trong cuồn băng ghi âm “Tương quan giữa sự sống và chết”: Trong thế giới của ta có bốn châu ở chung quanh núi Tu Di: Bắc Câu Lư Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hoá Châu và cõi Nam Diêm Phù Đề (là cõi mà chúng ta đang ở). Người ở Bắc Câu Lư Châu, Đông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu rất là thông minh, họ giàu sang sung sướng; Nhưng nếu họ muốn thành Phật thì họ cũng phải tái sanh về cõi Nam Diêm Phù Đề của chúng ta, vì chỉ ở cõi Nam Diêm Phù Đề mới có Phật Pháp. Cho nên muốn được thân người ở cõi Nam Diêm Phù Đề đã là khó rồi (thân người khó được) mà làm người tu hành lại càng khó hơn. Từ ý ấy, tôi đã để ý lại chuyện con mối cánh từ tổ bay ra, để rồi rụng cánh cắn đít dẫn nhau về tổ để được làm mối chúa; giống như con người rời cõi Thanh Tịnh, Chân không Diệu hữu để hiện thân làm người, chịu khổ đau, tu hành được trở về “nơi chốn cũ” mà thành bậc Giác Ngộ, thành Phật. Nhưng trong Kinh Viên Giác, Đức Phật lại ví dụ rõ hơn: Tâm thức ta từ trong cõi thanh tịnh, trong sáng, vì vọng tưởng khởi lên, vì u minh che lấp sự sáng suốt nên ta muốn có thân, rồi từ thân có giác quan (lục căn), tiếp xúc với sáu trần, có sáu thức, rồi sanh ra Dục Ái nên mới bị triền miên luân hồi; giống như quặng của vàng, chưa tập hợp, còn rời rạc trộn lẫn với đất đá, tạp chất. Khi tu hành giống như quặng được tôi luyện và khi quặng vàng đã trở thành vàng ròng là lúc chúng ta trở thành Phật. Lúc ấy vàng sẽ không bao giờ là quặng nữa. Qua ví dụ ấy cho ta thấy sự “vô minh” là sự “tất có”, để quặng trở thành vàng. Và chúng sanh lặn hụp trong luân hồi là điều “hiển nhiên”. Ai cũng phải vào biển khổ, ai cũng phải lội xa bờ, nhưng xa nhiều xa ít, chìm đắm nhiều chìm đắm ít tùy theo sự “thích chơi” hay “căn cơ” của mọi người. Giống như một trò chơi: Con người ai cũng từ nơi ấy, đi qua các giai đoạn như nhau, để rồi trở về nơi chốn cũ với một tính cách trưởng thành hẳn lên. Chỉ khác nhau là nếu tôi thích chơi trong biển khổ thì tôi sẽ ở lâu hơn, lội xa hơn, đường về sẽ gian nan hơn; còn bạn chán sớm thì bạn lên bờ sớm, bạn trở thành Phật trước tôi. Chỉ có vậy thôi! Nhưng bao giờ ý nguyện, nguyện lực của mình cũng vẫn là quan trọng. Lúc xưa khi đi làm chung với bạn bè, có anh bạn bảo rằng “mình muốn cái gì thì sẽ có cái nấy, mình muốn xe thì mình ráng làm, để dành tiền thì có xe; muốn nhà thì có nhà; muốn đi chơi thì sẽ đi chơi; muốn có vợ bé thì có vợ bé”. Đúng là như vậy, ý muốn của mình là quyết định tất cả. Mình muốn thiện thì mình sẽ làm các việc thiện, giúp ích cho đời, cho xã hội, cho người. Mình muốn làm việc ác thì mình sẽ tạo ác, gây rối cho xã hội, cho người, cho mình. Và trong cuộc luân hồi mình muốn thoát ra khỏi thì mình sẽ “dứt khoát” phải tìm đường ra, nguyện lực tu hành sẽ dũng mãnh và mình sẽ là một “Bất Thối Bồ Tát” không sai. Nếu mình còn muốn chơi tiếp tục mà người khác cứ mãi đến lằng nhằng khuyên răn, mình sẽ “chán ngấy” và đôi khi mình sẽ lôi họ để bắt họ chơi cùng với mình cho “bỏ ghét”. Mới đây, khi vào chùa Pháp Hoa, tình cờ tôi thấy được “Kinh Người Biết Sống Một Mình” do Thiền Sư Thích Nhất Hạnh dịch. Tôi cũng muốn tìm hiểu cùng bạn để chúng ta có thể hiểu xa hơn được chút nào không trên con đường tu tập và nếp sống của mình:

Đừng tìm về quá khứ 
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đã không còn
Tương lai thì chưa tới

“Này Quý Thầy, sao gọi là tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tư tưởng ta từng như thế, hành nghiệp ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế. Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang Tìm về quá khứ”. “Này Quý Thầy, sao gọi là không tìm về quá khứ? Khi một người nghĩ rằng: Trong quá khứ hình thể ta từng như thế, cảm thọ ta từng như thế, tư tưởng ta từng như thế, hành nghiệp ta từng như thế, nhận thức ta từng như thế, Nghĩ như thế và không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy thì người ấy đang Không tìm về quá khứ”.

Có một lần tôi đã kể lại cùng bạn một sự tất nhiên của ký ức về quá khứ. Ai, dù ít dù nhiều, khi về già đều có sự ôn lại cái quá khứ mà mình đã trải qua: Có quá khứ oanh liệt, có quá khứ thảm sầu, có quá khứ đẹp như mơ, mà cũng có quá khứ khốn cùng, mỗi người mỗi nét, mỗi người mỗi vẻ. Nhưng chung quy, quá khứ bao giờ cũng là “kỷ niệm dấu yêu” dù nó có đầy thương đau đi nữa, là “cái gì” được ta trân trọng gìn giữ nó.

Nhiều lúc trong các câu chuyện “Trà dư tửu hậu” ai cũng đều có kỷ niệm thật đẹp về tình yêu trai gái, của thời ấu thơ phá phách, của thời kỷ niệm làng quê hoặc thời vàng son lưu luyến. Người kể rất là say sưa như muốn chìm đắm trở lại trong các kỷ niệm ấy, và đôi lúc họ muốn, họ có nguyện lực trở lại nơi ấy, hoặc sẽ gặp người ấy nếu có kiếp “lai sinh”. Ấy là tự mình ràng buộc mình, thúc đẩy tâm thức mình một hứa hẹn kiếp sau. Điều mình mong muốn, quyết muốn thì mình sẽ được. Thế là ta lại “được” một kiếp nữa trong cõi luân hồi. Đấy là điều mà Đức Phật nói “Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang tìm về quá khứ”.

Và nếu ta ngồi ôn lại cuộc đời đã qua để tách ra điều thiện, điều ác, tốt xấu, đúng hay sai rồi mình tự ăn năn, sám hối, tu tịnh hầu giải bớt “nhân kiếp sau” và hành trang “cận tử nghiệp” còn ít lại chừng nào thì đường về xứ Phật ta sẽ nhẹ nhàng và nhanh chóng chừng nấy. Vì vậy mà “Nghĩ như thế và không khởi tâm ràng buộc quyến luyến về những gì thuộc về quá khứ ấy, thì người ấy đang Không tìm về quá khứ”.

Còn về tương lai thì sao?

“Này Quý Thầy, sao gọi là tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ được như thế kia, cảm thọ ta sẽ được như thế kia, tư tưởng ta sẽ được như thế kia, hành nghiệp sẽ được như thế kia, nhận thức ta sẽ được như thế kia. Nghĩ như thế và khởi tâm ràng buộc và mơ tưởng về những gì thuộc tương lai ấy, thì người ấy Đang tưởng tới tương lai”.

“Này Quý Thầy, sao gọi là Không tưởng tới tương lai? Khi một người nghĩ rằng: Trong tương lai hình thể ta sẽ được như thế kia, cảm thọ ta sẽ được như thế kia, tư tưởng ta sẽ được như thế kia, hành nghiệp sẽ được như thế kia, nhận thức ta sẽ được như thế kia. Nghĩ như thế mà Không khởi tâm ràng buộc và mơ tưởng những gì thuộc về tương lai ấy, thì người ấy đang Không tưởng tới tương lai”.

Mình không bằng lòng với cuộc đời hiện tại này của mình hoặc mình không ưng ý với những điều kiện mà mình đã nhận lãnh, đã có từ trước đến nay, để rồi ta mơ ước, nếu có một kiếp sau, một kiếp lai sinh mình sẽ là như thế này thế khác. Đấy là một “ý nguyện cứng chắc”, nó sẽ được thành tựu và rồi ta lại đưa ta vào một kiếp nữa trong vòng luân hồi triền miên. Đó không phải là điều của người Trí trong Đạo Phật, mà chỉ là một sự u mê để kéo dài cuộc luân hồi của mình thêm ra. Do vậy sự đoạn quá khứ, và đoạn tương lai là một điều cần thiết để chúng sinh nhanh chóng thoát khỏi cảnh luân hồi. Cũng cùng ý nghĩ ấy tôi đã viết: “Còn việc trong khi “miễn cưỡng” diễn trò mà tâm hồn chán nản, thì vừa “diễn trả nợ” lại vừa thối lui.. tìm con đường tu để không gây nhân nữa mà chỉ lo trả nợ cũ thôi. Khi hết nợ, ta sẽ ung dung tự tại, đứng ngoài lề cuộc chơi, rời khỏi dòng nước lôi cuốn của luân hồi”.

Vả lại, với một tinh thần thoải mái hơn ta tự hỏi ta quyến luyến quá khứ để làm gì? Ta có quyền nhớ lại, kể lại như là một kỷ niệm vui chơi, chứ luyến nhớ để làm gì? Ta nhớ lại người yêu xưa để chi? Ta dù nhớ thương cách mấy, thì cũng không thể xoay thời gian trở lại được. Thôi thì việc gì qua cứ để nó qua luôn, đừng lấy nó để bận lòng, còn trăm ngàn việc khác phải lo.

Và với tương lai ta chưa biết ra sao? Dù mơ ước thế nào đi nữa thì nó cũng chưa tới mà nếu nó tới mà không đúng với điều ta mơ ước, như vậy càng làm cho ta khổ hơn. Vậy thì nghĩ đến tương lai để làm gì?

Hãy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại 

“Này Quý Thầy, Thế nào gọi là bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người không học, không biết gì về Phật, Pháp, Tăng, không biết gì về các bậc hiền nhân và giáo pháp của họ, không tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, cho rằng hình thể nầy là mình, mình là hình thể nầy, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tư tưởng này là mình, mình là tư tuởng này, hành nghiệp này là mình, mình là hành nghiệp này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này thì khi ấy người đó Đang bị lôi kéo theo hiện tại”.

“Và này Quý Thầy, thế nào gọi là không bị lôi cuốn theo hiện tại? Khi một người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có biết về các bậc hiền nhân và giáo pháp của họ, có tu tập theo giáo pháp của các bậc hiền nhân, không cho rằng hình thể này là mình, mình là hình thể này, cảm thọ này là mình, mình là cảm thọ này, tư tưởng này là mình, mình là tư tưởng này, hành nghiệp này là mình, mình là hành nghiệp này, nhận thức này là mình, mình là nhận thức này thì khi ấy người đó đang không bị lôi kéo theo hiện tại.

“Đó tôi đã chỉ cho Quý Thầy biết đại cương và giải thích cho Quý Thầy nghe về Thế nào là người biết sống một mình”.

Quả thực, con người bị lôi cuốn, lôi cuốn quá nhiều trong cuộc sống. Đối với các quốc gia Đông phương mức độ bị lôi cuốn hãy còn chậm chạp hơn. Xã hội văn minh, tiến bộ vật chất chừng nào thì dòng chảy càng mạnh chừng nấy: Vì ta phải ráng lo làm để đáp ứng vào mọi chi phí do các tiện nghi cung cấp trong xã hội. Ta cứ mải chạy theo thời gian và tiền bạc, đôi lúc ta cảm thấy rằng ta đã quên đi bản thân mình.

Nếu đứng về phương diện tinh thần ta đã bị lôi cuốn vào cuồng lưu luân hồi, lúc nào ta cũng đều có “các căn” nhìn vào “các trần” để ta cảm nhận được qua “các thức” rồi sanh ra Tham Dục Ái. Có tham có dục thì ta phải làm kiếm tiền, hay tìm đủ mọi cách để tạo hoặc chiếm hữu cho được, rồi thích hay không thích mà sanh tâm phiền não hay tiếp tục kiếm thêm.

Và ở đây Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy: Đối với người không biết Đạo, không hiểu về giáo pháp, họ cứ mãi cho rằng thân thể này là họ, mà họ chính là thân thể này, cũng cùng ý như vậy họ sẽ nhận cảm “thọ”, tư “tưởng”, “hành” nghiệp, nhận “thức” chính là họ hay họ được thể hiện qua các hình thức đó.

Còn đối với những người có học, có biết về Phật, Pháp, Tăng, có tu tập thì họ hiểu được thân mình là giả tạm, thân tứ đại vô thường, họ cần có thân xác chỉ là để trưởng dưỡng cái “huệ mạng” mà thôi, thì họ không cần thiết phải ăn ngon, mặc đẹp, không phải tranh giành hay dùng mọi cách, mọi thủ đoạn để chiếm hữu cái ngon nhất, tốt nhất, êm nhất, ấm nhất cung phụng cho cái thân xác hoặc chính vì muốn nuôi thân xác mà họ lại đày đọa thân xác: Phải làm thật nhiều, phải làm thêm giờ (overtime), phải tranh thủ thời gian để kiếm được nhiều tiền, có để mua thức ăn ngon, quần áo đắt tiền... cung phụng cho thân xác và cuộc sống. Từ nơi hiểu được thân là vật không tồn tại vĩnh viễn, mà cái Tâm, “cái Biết” của mình mới thật sự là mình, cho nên xúc, thọ, tưởng, hành, thức được sinh ra từ thân giả tạm thì chúng cũng là giả tạm, thân không còn thì chúng cũng sẽ không còn.

Từ đó, ta mới an trụ lại thân tâm, đứng yên lại mà nhìn dòng đời trôi qua, nhìn mọi việc xảy ra giống như một màn kịch; hoặc là ta ngồi xuống, lắng lòng lại, suy nghĩ và quyết định tu hành, để ăn năn sám hối, để chuộc lại những sai lầm trước kia, và nhìn lại những việc Thiện, việc tốt đã làm mà lòng thanh thản hơn thêm,.. Cho nên Đức Phật mới nói tiếp:

“Kẻ thức giả an trú
Vững chãi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bắt ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Thì Mâu Ni gọi là
Người biết sống một mình”. 

Nguyên Thảo.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2014(Xem: 8953)
anger-face Cơn giận có nhiều hình thức. Nó len lén nổi lên trong ta. Trước hết là sự mất kiên nhẫn, rồi thì nóng nảy, bực bội, giận dũ và cuối cùng là thù hận. Có cơn giận sôi sục, có cơn giận lành giá, có cơn giận làm bạn run lẩy bẩy, có cơn giận bùng lên như lửa cháy. Và có cơn giận chính mình – chúng ta gọi là tự căm ghét mình.
27/03/2014(Xem: 10274)
Sáng ngày 13/3/2014, tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng Làng Mai, Giáo sư Lap-Chee Tsui, Viện Trưởng (Vice Chancellor and President) Trường Đại Học Hồng Kông đã trao bằng Tiến sĩ Danh Dự trong lĩnh vực khoa học xã hội cho Thầy Làng Mai – Thiền sư Thích Nhất Hạnh để vinh danh những đóng góp của Thầy cho nền hòa bình thế giới.
26/03/2014(Xem: 8570)
Trị liệu ung thư bằng chánh niệm là một tập sách ghi chép lại kinh nghiệm của thầy Chân Pháp Đăng về quá trình trị liệu thành công căn bệnh ung thư ruột già của thầy mà không sử dụng những phương pháp y khoa hiện đại như hóa trị, xạ trị….
23/03/2014(Xem: 15860)
Bài giảng cuối cùng là câu chuyện đẹp về người thầy, một người bạn, một người chồng và người cha, về giá trị nhân văn cao cả của cuộc sống. Bài giảng của người thầy đã cận kề với cái chết không nói gì về sự ra đi, mà lại là những câu chuyện hài hước, dí dỏm để đúc kết những chân lý sống “nếu bạn dám ước mơ điều gì, bạn sẽ có thể thực hiện được điều đó". Đó là người thầy của Trường Đại học Carnegie Mellon (Mỹ) - Randy Pausch, người đã mang đến một bài giảng có sức sống vượt ra khỏi khuôn khổ nhà trường để đến với công chúng toàn thế giới. Bài giảng cuối cùng thật xúc động, chân tình và đầy ý nghĩa đã được kết tinh lại thành những trang sách có sức lan tỏa đến hàng triệu trái tim người đọc trước khi ông qua đời ở tuổi 47 vào giữa năm 2008 vì bệnh ung thư. Sách đã được dịch ra 35 thứ tiếng.
22/03/2014(Xem: 6341)
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. * “Tự tri” là quán chiếu tâm thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
21/03/2014(Xem: 9844)
Có người thợ mộc già làm việc rất chuyên cần và hữu hiệu lâu năm cho hãng thầu xây cất . Một ngày kia, ông ngỏ ý với hãng muốn xin nghỉ việc về hưu để vui thú với gia đình. Tuy không còn có đồng lương nhưng ông ta muốn nghỉ ngơi để an hưởng tuổi già.
21/03/2014(Xem: 22679)
Những câu kệ, lời văn, tư tưởng, ý nghĩ trong suốt 365 trang giấy của quyển sách nhỏ này là tinh hoa, là kinh nghiệm tu tập, là trải nghiệm cuộc sống từ nhiều nguồn tư tưởng, hệ phái, pháp môn khác nhau, là suối nguồn tư duy, là hạnh nguyện, là sự hành đạo và chứng đạo của những bậc Lạt Ma Phật giáo Tây Tạng, những Tăng sĩ Miến Điện, những vị Thiền sư, những đạo sĩ Ấn Độ giáo, những cư sĩ học giả Đông Tây, và ngay cả những thi sĩ, văn hào, nghệ nhân trên thế giới, tuy nhiên, như nước trăm sông đều chảy xuôi về biển rộng, dù khác nhau trên mặt văn từ, ngôn ngữ hay hình thái diễn đạt, những nguồn tư tưởng tâm linh này đều nhắm chung về một đích hướng là “Yêu thương đời, giác ngộ người trong Từ Bi, Trí Tuệ và An Lạc.”
20/03/2014(Xem: 7768)
Đạo Phật thường được gọi là “viên ngọc như ý” vì nó đáp ứng cho mọi nhu cầu, mọi đòi hỏi, mọi ước muốn của con người, dù thấp hay cao. Đáp ứng điều gì? Đáp ứng cho con người tự do, bình an và hạnh phúc, tùy theo mức độ đầu tư và khai thác kho tàng bên trong của mỗi con người. Tự do, bình an và hạnh phúc là quyền của mỗi người, do chính con người định đoạt.
19/03/2014(Xem: 7793)
Trong đời tôi, dường như ngoài việc được (hay bị) má tôi đẻ sớm, trước khoảng thời gian dự định thường lệ, chín tháng mười ngày cho một bào thai, mọi chuyện khác đều đến với tôi rất muộn màng. Yêu muộn mà tu cũng muộn!. Sinh ra trong một gia đình theo
19/03/2014(Xem: 5714)
Mẹ mất, con gái biết nấu ăn từ lúc lên 5 Yasutake Hana lần đầu làm món súp miso khi 5 tuổi, sau vài tuần mẹ cô bé mất vì ung thư vú. Hiện tại, nữ sinh 11 tuổi có thể tự nấu một bữa cơm nhiều món hoàn chỉnh, và làm mọi việc trong nhà.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567